PHẦN I: TỨ MẠT CA
01-
Thong dong ngẫm nghị sự đời
Lấy trong kinh huấn mấy lời mà suy:
Chữ rằng: Sinh kỷ tử quy.
Ở đời là chốn tạm thì mà thôi
Xưa nay danh lợi mấy người,
Nào ai đã sống ở đời mãi đâu!,?
Biển đời bãi cát ngàn dâu
Khác nào như bóng bạch câu qua mành
Thấy rồi tưởng lại tủi mình
10- Lấy câu Tứ Mạt hết tình thở than!
11- Lời trong Kinh Thánh dạy rằng
Một là sự chết hiển nhiên rõ ràng;
Dầu mà những bậc đế vương,
Những người hèn, dại, những phường khôn ngoan,
Đám mây ngọn khói tiếng đàn,
Sương sa bãi cát hoa tàn cội cây:
Trường giang nước những chảy hoài,
Sớm qua tối lại, đưa người cổ kim,
Bóng đưa thấp thoảng quang âm,
20- Người đã qua trước, ta lần theo sau,
Vốn xưa Tạo Hóa nhiệm mầu,
Nào ai đã trốn khỏi cầu tử sinh.
Phải suy sự chết cho rành,
Kìa ngày sau hết, run minh sợ thay!
Thương ôi! nhiều nỗi đắng cay!
Xem trong thân thể khác ngày bình sinh,
Chân tay xem đã khác hình,
Khi ăn khi ngủ khôn tình được yên,
Con mắt thấy đã sưng lên
30- Tứ chi quyết lạnh, sắc nhìn xanh xao,
Thầy hay thuốc đã biết bao,
Kìa phương lục vị, nọ cao thập toàn,
Bệnh cơ đến lúc gian nan,
Tâm thần bất tỉnh, bàng hoàng như say,
Hoặc là những kẻ thơ gây,
Còn trông lâu tháng dài ngày nhởi chơi;
Hoặc là kẻ mới đôi mươi,
Còn đang chuộng sắc tham tài chưa thôi,
Hoặc là những kẻ ăn chơi,
40- Bài tôm, cờ tướng vẽ vời được thua;
Hoặc là những kẻ nông phu,
Cày mây cuốc gió sớm trưa giãi dầu,
Những mong tạu ruộng mua trâu,
Mở vườn lập tước làm giàu làm sang.
Hoặc là những kẻ văn chương,
Sách đèn giong giả khoa trường chăm lênh,
Những mong chiết quế vương đình,
Thám hoa đế diện hiển vinh trong đời.
Hoặc là những kẻ lưới chài,
50- Kinh nghề sú vược liệu bài đón ve.
Hoặc là buôn bán trăm nghề,
Lời mười một vốn tàu bè trẩy trương.
Hoặc người làm thợ làm thùng,
Những mong tạc phượng thêu rồng vẽ lân.
Đều còn tính việc làm ăn,
Ai ngờ sự chết lần lần theo sau,
Kẻ khinh người trọng như nhau,
Trên rừng dưới biển trước sau một đàng,
Mai mê tước lộc vinh quang,
60- Chẳng hay một giấc mơ màng mộng xuân.
Của trần để lại cho trần,
Dầu ai tạc phượng thêu rồng mặc ai,
Đời người đến thế thì thôi,
Đã hết sự đời các việc sạch không.
Hoặc là vợ thác trước chồng,
Than rằng! em hởi, cực lòng anh thay!
Vợ chồng kết tóc giao tay,
Những mong phận đẹp duyên hài bách niên,
Ai ngờ bến lại xa thuyền,
70- Âm dương cách biệt cho nên nỗi này!
Buồng hương lạnh ngắt đông tây,
Lấy ai niu nứng một bầy con thơ!
Tiếc thay tài sắc khôn vừa,
Cười hay mới biết đã vừa khôn ngoan!
Nữa chừng trâm gãy gương tan,
Cũng mang lấy kiếp hồng nhan làm gì?"
Hoặc là chồng thác bây giờ,
Vợ than: "Anh hởi, sao mà bỏ tôi?
Đoạn trường đáo để khúc nôi,
80- Lấy ai lo lắng trong ngoài cho xong?
Ngờ nào được vẹn chữ đồng!
Có sao lại để lạnh lùng phòng loan?
Làm chi khói tắt hương tàn,
Bâng khuâng lá bạc qua ngàn rừng xanh!
Tiếc thay một đấng tài tình,
Văn hay võ giỏi thông minh trong đời,
Nữa chừng lá rụng hệu rơi,
Tiếc công khó nhọc tiếc người tài hoa!"
Hoặc là con khóc mẹ cha,
90- "Cha ôi mẹ hỡi sao mà bỏ con?
Có cha gót đỏ như son,
Bấy giờ cha thác gót con đen sì!
Có mẹ thì mẹ bù chì,
Bây giờ mẹ thác con thì cậy ai?
Từ nay vắng vẻ trong ngoài,
Chẳng ăn, chẳng nói, chẳng cười, chẳng đi,
Chẳng còn dạy nhủ điều chi,
Chẳng còn kẻ nể người vì nữa đâu.
Chẳng còn nếm sự ngót ngào.
100- Chẳng còn thăm viếng đến nhau nữa rồi.
Làm chi vật đổi sao dời?
Long đong nghĩa trước ngẫm ngùi duyên sau,
Nỗi niềm tưởng đến mà đau.
Thấm trong ngan phổi, sương dầu cỏ non,
Thôi đành sinh tử lẽ thường.
Sống đời ví cũng như dường chiêm bao!
Ai ôi! Phải liệu làm sao?
Khách đày quán tạm người nào được lâu?
Vậy nên ta phải lo âu,
110- Chớ còn chuộng quý tham giàu làm chi,
Ở thời thì phải theo thời
Hàng ngày dùng đủ với đời thì thôi.
Nhớ trong Tin kính mấy lời,
Tin có sự sống đời đời chẳng sai.
Bây giờ suy lẽ thứ hai
Người đã chết rồi, hồn phải đi đâu?
Suy lường ý Chúa nhiệm mầu
Dựng nên trời đất mới âu sinh người
Dựng nên muôn vật muôn loài,
120- Để cho người thế hôm mai được dùng;
Dựng nên xuân hạ thu đông,
Tinh thần nhật nguyệt xoay vần sáng soi.
Ban cho trí tuệ hơn loài,
Biết suy sự phải, biết bày sự nên;
Soi cho biết Chúa thượng thiên,
Phượng thờ chân hiếu một niềm chí tôn,
Đời này dự vẹn răn truyền,
Ngày sau hưởng phúc thiên niên đời đời,
Ví không dự được như lời,
130- Sau này phải phạt trong nơi ngục hình,
Nhớ lời thường đọc trong kinh;
Ngày sau phán xét chí bình chí công,
Vậy khi ta đã mệnh chung,
Linh hồn phải đến khiêm cung trình bày,
Than rằng run sợ lắm thay!
Suy đến sự này đáo để lòng tôi,
Vì khi còn sống ở đời,
Những bưng con mắt như ngồi trong hang,
Những mê giấc mộng đêm tràng,
140- Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu;
Bây giờ mới tỏ âm hao.
Quang mây mới rõ ngôi sao trên trời,
Giấc mê rày đã tỉnh rồi,
Quả nhiên thật có như lời truyền xưa,
Uy nghi phảng phất gần xa,
Nhãn tiền ngự đó thật là Ngôi Hai,
Chung quanh các thánh dẫy đầy,
Có thánh quan thầy có thánh Angiô,
Có cờ Câu Rút sáng lòa,
150- Nghiêm trang chói lói một tòa hiển nhiên,
Linh hồn đến trước điện tiền,
Sách biên tội phúc Chúa liền mở ra
Bây giờ Chúa mới xét tra,
Rằng: khi ở thế đã là làm sao?
Phúc thật tám mối thế nào,
Chừa tội bảy mối, làm sao trình bày:
Mười răn giữ vẹn hay sai,
Sáu điều Hội Thánh một bài xét tra,
Dầu mà bát nước ban ra,
160- Hư từ một tiếng, đều là phải thưa,
Phải là ở thế ngày xưa,
Sớm trưa cần mận phượng thờ Chúa trên.
Bụt thần ma quỉ chẳng tin,
Mười răn vẹn giữ lời truyền Chúa xưa,
Thì Người phán dạy bây giờ,
Rằng: "Con ăn ở đã vừa lòng Cha:
Lỡ thì cho khách đậu nhà,
Khát thì cho uống đói đà cho ăn,
Rày Cha thưởng phúc cho con,
170- Thiên đàng chốn ấy, thanh nhàn thiên niên",
Hoặc là khi ở thế gian,
Những theo xác thịt việc hồn thì không,
Tiếng rằng giữ đạo cha ông,
Cũng có tên thánh, song lòng chẳng tin.
Ngày kiêng thịt đánh kìn kìn,
Luật trong Hội Thánh, chẳng nhìn tới nơi.
Thầy khoa bà bói thì hay,
Lòng tin mến cậy Chúa rày thì không.
Ở ăn cậy thế cậy hùng,
180- Đạo quân sư phụ, sạch không làu làu,
Lòng đầy tích những gươm đao,
Lo tìm chước độc mưu cao hại người.
Điều lành gác để ngoài tai,
Hoa tình tục tĩu là bài học ôn,
Việc người bắt méo bắt tròn,
Bao giờ mình được bạc vàng mới tha,
Lại thêm đốt cửa hại nhà,
Xoi tường khoét vách ghê đà quá thôi,
Chuyện mình giấu giếm đầu đuôi,
190- Chuyện xấu gì người vạch lá tìm sâu,
Kiếm đàng dối trá hại nhau,
Nói hành bỏ vạ làm cao làm càn,
Tóc tai ve vuốt chững chàng,
Trong lòng vốn những mơ màng nguyệt hoa,
Lại thêm cờ bạc rượu trà,
Tham lam của cải người ta quá chừng,
Lâu năm bỏ tội không xưng,
Ai bảo thì rằng: Tôi có tội chi,
Nhà thờ lễ lạy không đi,
200- Nghe có việc gì xôi thịt thì mau,
Bao nhiêu tội ác trước sau,
Bày ra xát xát từ đầu chí đuôi,
Ăn năn thì đã muộn rồi,
Mình làm mình chịu hởi ôi! lẽ gì!
Mùa thương thì đã hết kỳ,
Đến giờ oán phạt còn gì nữa đâu!
Ai ôi! Suy nghĩ làm sao?
Dối trá thế nào, chạy chữa cùng ai?
Sau lưng có quỉ cáo nài,
210- Dầu thánh quan thầy chẳng lẽ chữa bênh,
Bồi hồi bứt rứt trong mình,
Thấy tỏ ngục hình, thảm thiết đắng cay!
Lời nghiêm Chúa mới phán rày:
Ơ loài vô phúc, ơ loài bất nhân!
Mày đã phản Chúa, phụ quân,
Thì giao quỉ dự bắc cân lý hình"
Ai ôi! Thật sợ thật kinh!
Xét lại trong mình tội lỗi lắm thay!
Trần gian là chốn khách đày,
220- Ba thù cám dỗ khi nay thì nhiều,
Mùi ngon, sắc đẹp lòng yêu.
Hãm mình chịu khó phần nhiều chẳng ưa,
Vui chơi dầu mấy cũng vừa,
Hôm mai kinh hạt nữa giờ đã lâu,
Chấp tay quỳ gối nguyện cầu,
Trông ơn Chúa Cả trên đầu đoái thương,
Ban ơn biết cách đo lường,
Ăn năn đời tạm tìm phương hãm mình.
Ghi lòng phán xét công bình,
230- Kẻo trong ngày ấy trách mình, mất công.
Phán xét các việc vừa xong,
Thiên đàng mở cửa trông mong người lành,
Ngục hình rẽ đất mở phành,
Muôn vàn quỉ dự đứng rình tội nhân.
Vậy ta suy chốn ngục hình,
Là nơi những lửa diêm sinh dẫy đầy,
Chúa xưa đã dựng ngục này.
Nghiêm trừng thần dự là loài quỉ ma,
Nó hằng cám dỗ người ta,
240- Ai mà theo nó phải sa ngục này,
Ngục này là ngục đắng cay,
Là chốn dẫy đầy những lửa sinh diêm.
Tội nhiều thì lửa càng thêm,
Trăm năm như mới chẳng êm chút nào.
Mấy người sa xuống vực sâu,
Dễ ai lấp thảm, bớt sầu cho ai,
Máu tuôn nước mắt đượm dài,
Than thôi lại khóc khóc rồi lại than.
Than rằng: Biển lửa mêng mang,
250- Bao giờ cho tắt cho tàn lửa ôi!
Lửa này biết lúc nào thôi,
Lửa này biết lúc nào rồi mà trông!
Lòng ôi! Đáo để chưa lòng,
Lòng mê sắc dục lòng mong rượu trà,
Lòng lo hà hiếp người ta.
Lòng lo cao cửa rộng nhà cho sang.
Lòng lo tích trử bạc vàng,
Lòng lo hút sách hoang đàng say sưa.
Lòng lo phận đẹp duyên ưu,
260- Lòng lo dối trá phỉnh phờ người ta,
Lòng lo trang điểm lụa là,
Trau ăn trau mặc sa đà nhởi chơi,
Rày lòng muốn nữa hay thôi?
Làm chi cho cực thân tôi hởi lòng!
Mấy người trước có lòng chung,
Đêm ngày giảng dạy cho lòng được hay,
Mà lòng chẳng để vào tai,
Thì lòng có được trách ai bây giờ ?
Lòng sao mê muội ngẩn ngơ,
270- Tham vui một chút chóng qua làm vầy ?
Trách ai thổi gió đưa mây,
Đem đàng mở lối cho mày được theo.
Biết thân vui ít khổ nhiều,
Đã đem tiền bạc mà liều cho thân?
Của ôi! Của để cho con,
Nào con có biết nước non nôi này ?
Nghĩ càng thêm nôi đắng cay,
Rưới tuôn biển bạc, lấp dày non cao.
Đêm ngày nóng nảy khát khao.
280- Nhờ ai hạt nước giọt vào đây cho!
Trách mình sao chẳng biết lo.
Xưa rày ơn Chúa ban cho đã nhiều!
Mình ăn mình chẳng kính yêu,
Mình mê xác thịt mình theo sự đời.
Mình không biết Chúa là ai,
Nên mình phải phạt đời đời khốn thân,
Xưa nay tốt áo dài quần,
Trâm gài phấn xức bao chân dép giày,
Rày nên phách lạc hồn bay,
290- Cổ mang hoạn lửa, chân dày bàn chông,
Trăm nghìn rắn độc vào lòng,
Thần kinh quỉ khốc ầm ầm như lôi,
Khổ xưa đến chết thế thôi,
,Khổ này quá khổ muôn đời còn trơ.
Mẹ cha thà chớ sinh ra,
Làm chi mà để xót xa đời đời ?
Bao giờ cho thấy Chúa tôi.
Cho phai ngọn lửa cho nguôi lòng phiền,
Ấy là đầy phúc cửu truyền,
300- Vốn trong Kinh Thánh đã truyền khôn sai.
Phúc cho kẻ Chúa sáng soi:
Soi lòng mở trí biết lời Thánh Kinh,
Biết đàng đền tội sửa mình,
Thưởng công ắt đã để dành có nơi.
Kẻ sa hỏa ngục đã rồi,
Người thăng thiên quốc là người vinh quang,
Vậy ta suy sự thiên đàng,
Thánh Kinh truyền để rõ ràng khôn sai.
Thiên đàng là chốn no đầy,
310- Là nơi vinh phúc khôn tày khôn so;
Là nơi Thượng đế ngự tòa,
Cực sang, cực trọng, gồm no mọi đàng,
Miệng nào kể xiết giàu sang,
Trí nào suy thấu mọi đàng hiển vinh!
Hảy xem trong chốn triều đình,
Đền đài lầu các hữu tình minh quang,
Ấy là việc giả thế gian,
Tài hèn trí mọn còn toan thế này,
Phương chi Vua cả trên trời,
320- Là Vua trên hết các loài làm vua,
Tốt lành phúc đức gồm no,
Thì tòa trọng ấy ai so cho bằng?
Tóm tắt chỉ nói được rằng:
Là nơi vinh phúc muôn phần vẻ vui,
Dầu mà đã hưởng muôn đời,
Khác nào một lát một hồi chán đâu,
Muôn vàn thần thánh quỳ chầu,
Đai vàng áo tía trước sau rõ ràng,
Tháp ngà sân ngọc thành vàng,
330- Dưới trên đàn dạo nhịp nhàng âu ca.
Dầu mà nói mấy cũng là,
Như không như bóng sáng đà vào đâu,
Thánh xưa chỉ chép một câu:
"Mắt chưa hề thấy tai hầu chưa nghe,
Trí khôn bày vẽ chưa hề".
Ấy là Thánh đã xem nghe chép truyền.
Chớ gì ta nhớ liên liên,
Ắt là giữ đạo vững bền chẳng sai,
Nhớ rằng sống ở trần ai,
340- Như hoa sớm nở chiều hoai ra gì,
Nhớ rằng phán xét uy nghi,
Công bình nhiệm nhặt chẳng vì ai đâu.
Nhớ rằng địa ngục thẳm sâu,
Muôn nghìn điều khổ điều sầu điều cay.
Sinh diêm biển lửa dẫy đầy,
Nướng nung kẻ dự đêm ngày chẳng nguôi,
Nhớ rằng có chốn trên trời,
Thanh nhàn vui vẻ đời đời vô chung.
Muôn nghìn phúc trọng lạ lùng,
350- Thưởng người chịu khó lập công ở đời.
Thỉ chung tứ mạt mấy lời,
Ghi lòng tạc dạ muôn đời đừng quên,
Ấy là giữ vẹn răn truyền,
Lập công chịu khó ở miền trần gian.
Mai sau tới nước Thiên Đàng,
356- Lãnh phần phúc lộc thanh nhàn. Amen.
Sưu tầm và biên tập: J.B Antôn Hoàng Cảnh Hồng
PHẦN II: ĐI TÌM LAI LỊCH BÀI CA TỨ MẠT
(Bài đăng Nguyệt san CG&DT, số 107, Tháng 11 năm 2003)
Xin được giới thiệu với bạn đọc báo Công Giáo và Dân tộc và với toàn thể Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, một áng thơ Công Giáo mà chúng tôi thấy có mặt tại Giáo phận Vinh chúng tôi đã thấy từ rất lâu. Đó là TỨ MẠT CA hay BÀI CA TỨ MẠT. Nguyện vọng của chúng tôi là: Đem trình làng cho biết: Ai là tác giả của áng thơ này.
Giới thiệu nó như một tác phẩm gọi được là cổ, nhưng cũng không thiếu chất hiện đại, mà về văn chương, – theo thiển ý, – mọi người nên biết, vì phải nói đây là một trong những áng thơ tuyệt bút; còn về mặt tôn giáo, phải kể là nó rất có ích cho việc phổ biến những chân lí vĩnh hằng của Giáo lí Công Giáo, những chân lí được coi là không thể không năng được suy niệm, nếu muốn sống đúng lí tưởng Tin Mừng, nhằm góp phần thăng hoa đời sống người Kitô hữu, ngay cả- và nhất là- trong giai đoạn và nếp sống, về mặt đạo đức, đang băng hoại nhanh chóng trước sự lo âu trăn trở của mọi người có tâm huyết tiền đồ của nhân loại, của Đất Nước và của Giáo Hội.
Cũng như với nhiều áng thơ Công Giáo khác, với TỨ MẠT CA này, chúng ta có thêm bằng chứng cụ thể và hùng hồn để tự hào về những gì mag lịc sử Tin Mừng hóa trên đất nước chúng ta đã góp vào kho tàng văn hóa của dân tộc.
VẤN ĐỀ TÁC GIẢ
Một sự thực là TỨ MẠC CA này đã một thời rất được phổ biến rộng rãi và được mến chuộng tại các giáo xứ ở Nghệ Tĩnh Bình. Tứ Mạt Ca là một áng thơ đẹp quá về mặt văn chương mà cùng ý nghĩa quá về mặt tâm linh. Những năm 30 của thế kỷ hai mươi, áng thơ này được rất nhiều người,- đặc biệt là giới nữ, – ở giáo phận Vinh thuộc lòng và năng đọc; đọc chung trong nhà thờ, ngâm nga ở gia đình, mẹ chị ru con ru em với Tứ Mạt Ca, yên ủi kẻ liệt với Tứ Mạt Ca, xay lúa giã gạo với Tứ Mạt Ca, tay cày tay cấy với Tứ Mạt Ca... Nội dung giáo lí của nó về Bốn Sự Sau nhờ đó thấm dễ dàng và thấm sâu vào tâm hồn người tín hữu, sâu đến trở thành một động lực mãnh liệt làm người ta ăn không ngon ngủ không yên trước những câu hỏi lớn nhất về đời người, sâu đến gây xáo trọn lạnh mạnh, đến những cuộc đổi đời theo hướng thiện hảo.
Ai là tác giả của áng thơ Ca Tứ Mạt ?
Chúng ta đều biết: Đạo Công Giáo có mặt trên đất nước Việt nam đã hơn 4 thế kỉ. Ngay những hồi đầu, trong số các nhà truyền giáo người nước ngoài và bên cạnh họ, những nhà nho công giáo hoặc nho sĩ người lương theo đạo Công Giáo, các Thầy Giảng người Việt..., nhiều người rất thông Hán Nôm, rất có tài làm thơ ca, hò vè..., họ đã tích cực vận dụng thơ văn với nhiều thể loại làm phương thứcđưa đạo lí Tin mừng vào tâm hồn và cuộc sống nhân dân ta. Lịch sử nhiều giáo phận cũng thấy nói đến hiện tượng văn hóa tích cực này.
Riêng ở giáo phận Vinh, lịch sử ghi rõ việc các nhà truyền giáo ở đây, cách riêng cha Majorica...đã cổ động và tổ chức thực hiện cách xuất sắc, việc sáng tác thơ, ca, hò, vè, kịch..., và đặt những cung ngắm nguyện, những cung đọc cho mỗi loại sách: Cung nguyện ngắm, cung Ngắm Sự Thương Khó, cung sách Lọn lành, cung Giảng sự Thương Khó, cung Sử ký Hội thánh, linh mục Nguyễn văn Trinh, trong cuốn: Lược Sử Giáo Hội Việt Nam (tài liệu cho giảng viên giáo lí 1990) đã nói về Linh mục Thừa sai Giêrôm Majoroca, hoặt động ở Nghệ An và Thanh Hóa từ 1632, rồi lên thay Linh mục Morelli làm Bề Trên Đàng Ngoài 1649 như thế này: "Một mình cha Majorica kiêm vùng Nghệ An, Thanh Hóa. Cha là người đầu tiên soạn sách bằng chữ nôm: Loại sách minh giáo, sách thiêng liêng đọc chung trong nhà thờ, hạnh các thánh" (sdd t.74). Chúng tôi hoàn toàn tán đồng việc sưu tầm, phục chế những di sản văn hóa Công Giáo quí giá đó. Nào như vậy không phải là các bậc tiền bối đã thực hiện rất thành công một trong những công việc mà chúng ta thời nay đang phàn nàn chưa biết thực hành như thế nào, đó là hội nhập văn hóa đó sao? Trong tinh thần đó, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu với tất cả mọi thành phần Dân Thiên Chúa trên đất nước chúng ta, một trong những áng thơ có một không hai này. Mong được ý kiến đóng góp của tất cả.
Đây là nội dung và hình thức tập sách trong đó có TỨ MẠT CA, với những gì chúng tôi biết chắc và những gì chúng tôi chưa rõ:
Tập sách có tựa đề là TỨ CHUNG.
Những trang đầu là thế này:
1
TỨ CHUNG
ĐỨC CHA HẬU
coi sóc địa phận Nam ngoài bắc kỳ
đã dọn
và
TỨ MẠT CA
HONG KONG
Tứ Chung (từ trang 5 đến trg 129)
Phần văn xuôi của Đức Cha Gauthier Ngô Gia Hậu. Nội dung là suy ngẫm về 4 sự sau cùng đời người: Sự chết, sự phán xét, thiên đàng, hỏa ngục.
Tứ Mạt ca (từ trang 129 đến 141)
Phần văn vần là phần Diễn ca cả phần Tứ Chung ở trên, nhằm giúp giáo hữu dễ thuộc nội dung giáo lí ở phần TỨ CHUNG.
Trang cuối là thế này:
NIHIL OBSTAT
F.MONNIEP
Superior domus Nazareth
26 Novembr 1915
IMPHIMATUR
A.ELOY.EP.TIT.MAGYDENSIS
VICARIUS APOST. TUNNIKI . MEDIRIONALIS
Xã đoài, die 30 augusti 1915
IMPHIMATUR
D. POZZONI. EPISC.TIT.TAV.
VICAR. APOST. HONGKONG
Hongkong du 25 novembr 1915
Và đây là những điểm chúng tôi thấy không rõ ràng, mong được bạn đọc nhất là ở các giáo phận bạn, trong nước hay nước ngoài giúp ý kiến:
Thừa sai VitorBarbier, tên thật là Cố Hòa, nói trong lời tựa rằng: TỨ CHUNG là của "Đức Cha Hậu lối lại cho con cháu người muôn đời". Và nói tiếp: "ta mới tìm được một bản thì ta vội vàng in cho con chiên bổn đạo được nhờ."
Theo một tài liệu mà năm 1995 chúng tôi đọc thấy ở Kho Lưu trữ Hội Truyền Giáo Paris, Rue du Bac... thì một vị thừa sai người Pháp khác đã từng phục vụ tại Vinh, là Nivet-Ninh nói rằng TỨ CHUNG không do Đức Cha Hậu sáng tác, Đức Cha Hậu chỉ dịch một cuốn sách ở Trung Hoa của Cha Ortiz dòng thánh Âutinh thời vua Khang Hy, thư mục Nazaret 1911.. (DH 330-3, Correspondance P.Barbier 1906-1936, trang 18). Vấn đề này, không phải là điều chúng tôi chủ ý đặt ra ở đây. Bởi lẽ ý kiến thừa sai Nivet-Ninh cũng còn phải được phân tích phê phán xem có thật khách quan không...
Điều chúng tôi muốn được sáng tỏ là: Ai là tác giả của phần TỨ MẠT CA in kèm TỨ CHUNG, mà Cố Hòa nói là "Cuối sách này, ta thêm Ca Tứ Mạt cho ai nấy dễ thuộc lòng, hầu được suy ngắm bốn sự cùng sau hết loài người ta cho liên"?
Tại Giáo Phận Vinh trước đây, ai cũng biết Cố Hòa chính là thừa sai Victor Barbier, là tác giả của 2 tập từ điển Pháp – Việt và Từ điển Việt – Pháp, dạng bỏ túi, rất thông dụng vào những năm 1910-1945 ở Giáo phận VINH, cũng như những tập Hồi kí, Nhật kí tự tay Người viết, cho biết nhiều điều lí thú về nội bộ Giáo phận Vinh, quan hệ giữa các Giám Mục đương thời và hàng ngũ thừa sai, việc bỏ phiếu chọn và việc bổ nhiệm các Giám Mục ở VInh thời trước Cách Mạng Tháng Tám..., tất cả hiện lưu giữ tại Kho Lưu trữ Hội Truyền Giáo Paris (MEP). Nhưng khi V.Hòa nói "ta thêm Ca Tứ Mạt cho ai nấy dễ thuộc lòng..." thì rõ ràng là V.Hòa "thêm", nhưng đây là cho in thêm vào Tứ Chung, hay chủ ý nói chính V.Hòa thấy tác phẩm của Đức Cha Hậu bằng văn xuôi khó học thuộc, mà nội dung nó là giáo lí bổn sự sau thì cần thuộc lòng để năng đọc và năng suy, nên chính V.Hòa đã sáng tác TỨ MẠT CA và cho in thêm vào Tứ Chung, hoặc TỨ MẠT CA do một người Công Giáo Việt Nam nào khác, chẳng hạn trong tầng lớp Thầy Giảng xưa có nhiều những bậc thông Hán-Nôm, sáng tác, phiên dịch, những tài liệu sách vở hiện còn lưu truyền.
AI LÀ TÁC GIẢ CỦA TỨ MẠT CA?
Theo thiển ý chúng tôi,
Tác giả TỨ MẠT CA phải là một ai đó ở tại Giáo Phận Vinh hồi đó, tức phải là một thành phần của Giáo Phận Vinh, không thể là ai đó ở ngoài Giáo phận Vinh. Bởi lẽ, như trên đã nói: Tứ Mạt Ca được viết là để giúp nhớ và thuộc lòng Tứ Chung của Đức Cha Hậu, Giám Mục Giáo Phận Vinh trước đó. (Đức Cha Hậu mất năm 1877, V.Hòa xuất bản TỨ CHUNG kèm TỨ MẠT CA năm 1915). Hai áng văn thơ gắn liền với nhau trong một lần xuất bản, tuy TỨ CHUNG có trước 1877, còn Tứ Mạt Ca có sau: nó được công bố năm 1915 khi xuất bản Tứ Chung, những nó cũng không thể có trước TỨ CHUNG.
Nếu Tứ Mạt Ca cũng là của Đức Cha Hậu, thì V.Barbier – Hòa đã phải nói thể khác, chứ không nói tách biệt hai áng văn như trong lời Tựa.
Còn nếu Tứ Mạt Ca là của ai đó ngoài Giáo Phận Vinh, thì dĩ nhiên Cố Hòa cũng đã phải có phép tác giả và ghi rõ trong lời Tựa, vì một người phương Tây hồi đó không thể biết và tuân thủ luật về bản quyền...
Tuy nhiên, nguyên việc chính vị Đại Diện Tông Tòa của giáo phận Vinh hồi đó (1915) là Giám mục A.ELOY – BẮC ban Imprimatur theo yêu cầu của người định cho xuất bản tập Tứ Chung gồm cả hai phần: phần văn xuôi (Tứ Chung) và phần văn vần (Tứ Mạt Ca) cũng đã là bằng chứng rất mạnh cho phép quả quyết Tứ Mạt Ca (phần văn vần) không thể có tác giả là ai ngoài giáo phận Vinh.
Vậy chỉ còn phải tìm xem ai là ngời ở Giáo phận Vinh hồi đó đã sáng tác nên bài ca bất hủ này?
Theo thiển ý, có hai giả thiết:
Một là chính thừa sai V.Barbier-Hòa là tác giả, mà vì khiêm tốn, đã không nói ra. Ở Giáo Phận Vinh hồi xưa có nhiều vị thừa sai người Pháp rất thông thạo tiếng Việt. Cố V.Hòa đã làm được hai cuốn Từ điển Pháp-Việt và Việt-Pháp, thì cũng có thể rất có khả năng làm thơ lục bát.
Hai là, một người Việt Nam nào đó (một Thầy Giảng chăng?) ở Giáo Phận Vinh, đã sáng tác nên TỨ MẠT CA và Victor Barbier – Cố Hòa đã cho in kèm vào TỨ CHUNG, mà không hiểu vì lí do nào đó mà không nói TỨ MẠT CA là của ai. Điều này dễ hiểu, vì có biết bao áng văn thơ Công Giáo xưa vì e mặt này, ngại mặt nọ mà không kí tên tác giả.
Cũng cần ghi nhận một số điểm đặc thù của Bài Ca Tứ Mạt:
Rải rác có một vài chữ được phát âm và viết theo giọng và cách viết của người phía Nam: chẳng hạn: câu 23: Nào ai đã trốn khỏi cầu tử sanh? Câu 27: Nửa chừng lá rụng huê rơi. Không hiểu lí do gì đã khiến có sự lạc điệu như vậy...
Riêng về mặt thần học, phải nhận là Tứ Mạt Ca chứa khá nhiều điều lỗi thời, chẳng hạn những cách mô tả địa ngục, v.v... Nhưng cần nhớ: thần học của Tứ Mạt Ca là thần học trước Vatican II...
Dù sao, tác giả cả TỨ MẠT CA rất đáng được tôn vinh.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mong được quí vị và anh chị em Công Giáo cho ý kiến về điểm này. Chẳng hạn: ở các Giáo phận khác trước đây, TỨ MẠT CA có thời nào được biết đến và được phổ biến, được dùng rộng rãi không?
Nếu có, xin tìm xem và cho biết: ai là tác giả.
Cuối cùng, nếu ngoài Nghệ Tĩnh Bình, trước đây không ở đâu biết đến hoặc dùng rộng rãi TỨ MẠT CA, thì điều duy nhất được xác nhận là nó là sản phẩm văn chương của Giáo Phận Vinh. Và như thế, mọi thành phần của giáo phận Vinh sẽ có thể sung sướng tự hào vì ông cha mình đã có một đóng góp đáng kể vào kho tàng văn học Việt Nam, vì đã sớm biết tài tình vận dụng thơ ca để chuyển tải những giá trị Tin Mừng, đồng thời qua chính phương thức đặc biệt này, đã góp phần đẩy mạnh việc hội nhập văn hóa như một việc làm hoàn toàn có lợi cho công cuộc Tin mừng hóa.
III – THỨ NHẬN ĐỊNH
Tứ Mạt Ca mở đầu bằng mấy dòng thơ bình dị, hẳn đã làm bạn đọc bị thu hút ngay từ đầu:
Thong dong ngẫm nghĩ sự đời,
Lấy trong kinh huấn mấy lời mà suy.
Chữ rằng: sinh kí tử qui,
Ở đời là chốn tạm thì mà thôi...
Xưa nay danh lợi mấy người,
Nào ai đã sống ở đời mãi đâu?
Biển đời bãi cát ngàn dâu
Khác nào như bóng bạch câu qua mành
Thấy rồi tưởng lại tủi mình
Lấy câu Tứ Mạt hết tình thở than.
Chúng ta nghe như âm vang của những câu mở đầu Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du:
Trăm năm trong cõi người ta...
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng,
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen...
Chỉ với 10 câu thơ trong sáng, tuy có điển cố nhưng bình dân ai cũng quen thuộc, người đọc đã cảm thấy ngay mình đang đứng trước một cái gì nghiêm chỉnh, hệ trọng... không thể coi thường: đằng sau cuộc sống là cái chết và đằng sau cái chết là cả một loạt câu hỏi sẽ gây sức ép mạnh mẽ, buộc người có lương tri phải tìm câu trả lời và chấp nhận những thay đổi tận căn cội...
Kế đó, tác giả lần lượt vẽ lên 4 bức tranh mô tả 4 màn diễn sinh động sau cùng của tấn kịch đời người.
Bức tranh một là sự chết (cc.1-114).
Lời Kinh Thánh được vận dụng ngay để tái khẳng định chân lý về sự chết. Lời thơ được viết với những hình tượng rất thường tình, nhưng không hiểu sao lúc này lại làm người ta rung động đến thế! Ôi! Con người được coi là lớn như vậy, mà nhỏ bé đến thế này sao? Ngay sau đó là những đường nét với màu sắc rất "họa" mà cũng rất "thơ", vẽ lên những giờ khắc cuối cùng của đời người, của mọi hạng người: sang, hèn, thành thị, nông thôn. Tất cả bị sự chết đánh úp. Tài tình là tác giả gợi cho người sống, – lại là những người có quan hệ gần gũi nhất với người chết, – khóc người chết, bằng cách đó, mô tả đậm nét, hiện thực, sinh động tính mong manh của đời người, tính đau thương định mệnh của sự chết. Trong khi đó, người sống khóc cho người chết, cũng là khóc cho mình. Cái đích mà tác giả muốn người đọc, người nghe, – tức là người còn sống mà rồi có lúc phải chết, – đạt tới, đó là:
"Vậy nên ta phải lo âu" (cc.109-114)...
Bài học sự chết hiện lên một cách rất tự nhiên, nhưng với sức ép vô cùng mãnh liệt.
Bức tranh hai là cảnh phán xét (cc.115-230).
Tác giả bất ngờ đặt người đọc trước một phiên tòa bất đắc dĩ:
Những mê giấc mộng đêm tràng,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.
Bây giờ mới tỏ âm hao,
Quang mây mới tỏ ngôi sao trên trời...
Và chủ tọa phiên tòa đã hiện diện:
Nhãn tiền ngự đó thật là Ngôi Hai
Chung quanh các thánh dẫy đầy,
Có thánh Quan thầy, có thánh Angiô
Có cờ Câu Rút sáng lòa...
Sách biên tội phúc Chúa liền mở ra.
Cuộc thẩm vấn bắt đầu:
Bây giờ Chúa mới xét tra:
Rằng khi ở thế đã là làm sao...
Kết quả phiên tòa là tội phúc rõ ràng, thưởng phạt công minh. Cái đặc sắc là tác giả vận dụng lời thơ rất bình dân, trong sáng, mà không hề thô kệch. Như khi tả anh chàng:
Tiếng rằng giữ đạo cha ông,
Cũng có tên thánh nhưng lòng chẳng tin.
Ngày kiêng thịt đánh kìn kìn...
... Điều lành gác để ngoài tai,
Hoa tình tục tĩu là bài học ôn...
Lâu năm bỏ tội không xưng,
Nhà thờ lễ lạy không đi,
Nghe có việc gì xôi thịt thì mau...
Anh chàng khô đạo nào nghe mà không đỏ mặt?
Bản tuyên dương người lành, cũng như bản luận tội kẻ dữ đều rõ ràng, dứt khoát. Mà tài tình nữa là bài học được chỉ ra ngay lúc đó cho người trong cuộc, cả người ngoài cuộc:
Ai ơi! Thật sợ thật kinh,
Xét lại trong mình tội lỗi lắm thay!
Trần gian là chốn khách dày,
Ba thù cám dỗ khi nay thì nhiều.
Mùi ngon sắc đẹp lòng yêu,
Hãm mình chịu khó phần nhiều chẳng ưa.
Cấp tay quì gối nguyện cầu,
Trông ơn Chúa Cả trên đầu đoái thương,
Ban ơn biết cách đo lường,
Ăn năn đời tạm tìm phương hãm mình.
Ghi lòng phán xét công binh,
Kẻo trong ngày ấy trách mình mất công.
Bức tranh 3: ngục hình (cc. 231-304)
Đến đây hai ngả mở ra:
Thiên đàng mở cửa trông mong người lành
Ngục hình rẽ đất mở phành.
Muôn vàn quỉ dữ đứng rình tội nhân
Ở cảnh này, phải nói là nhà thơ tỏ hết tài nghệ, nhất là vận dụng bút pháp điệp ngữ... vừa cuốn hút, vừa minh bạch:
Bao giờ cho tắt cho tàn, lửa ôi!
Lửa này biết lúc nào thôi.
Lòng ôi! Đáo để chưa lòng!
Lòng mê sắc dục, lòng mong rượu trà,
Lòng lo hà hiếp người ta,
Lòng lo cao cửa rộng nhà cho sang.
Lòng lo tích trữ bạc vàng...
Thật là tuyệt bút! Cực kỳ đạo, mà cũng hết sức văn chương. Tiếp theo là gợi lại những lời khuyên dạy điều lành khi trước, mà người chịu xét xử lúc này đã từng bỏ ngoài tai... để nhấn mạnh ở tính công minh của hình phạt và lời giục bảo người nghe sửa mình...
Bức tranh cuối cùng là thiên đàng (cc. 305-356).
Chúng ta có được những câu những ý rất cô đúc mà văn vẻ: tác giả mượn cảnh triều đình vua chúa trần gian là cái người ta đã có thể trông thấy, để ví cảnh huy hoàng thiên quốc:
Hãy xem trong chốn triều đình,
Đền đài lầu các hữu tình minh quang,
ấy là việc giả thế gian..
Tài hèn trí mọn còn toan thế vầy.
Phương chi vua cả trên trời...
... Tóm tắt chỉ nói được rằng:
Là nơi vinh phúc muôn phần vẻ vui...
Và cuối cùng tác giả cũng vận dụng câu nói của thánh Phaolô để tạo cho mình một lối thoát an toàn, khi không thể dài lời hơn nữa:
Thánh xưa chỉ chép một câu:
"Mắt chưa hề thấy, tai hầu chưa nghe,
Trí khôn bày vẽ chưa hề".
Sau cùng, đã mở đầu bằng 10 câu khái quát, lại kết thục bằng 14 câu gói gém nội dung một cách đặc sắc:
Chớ gì ta nhớ liên liên,
Ắt là giữ đạo vững bền chẳng sai.
Nhớ rằng sống ở trần ai,
Như hoa sớm nở chiều hoai ra gì...
Nhớ rằng phán xét uy nghi,
Công bình nhiệm nhặt chẳng vì ai đâu!
Nhớ rằng địa ngục thẳm sâu,
Muôn nghìn điều khổ, điều buồn, điều cay;
Sinh diêm biển lửa dẫy đầy,
Nướng nung kẻ dữ đêm ngày chẳng nguôi.
Nhớ rằng có chốn trên trời,
Thanh nhàn vui vẻ đời đời vô chung.
Muôn nghìn phúc trọng lạ lùng,
Thưởng người chịu khó lập công ở đời.
Và rồi chỉ bằng 6 câu, như một lời nhắn nhẹ nhàng, tác giả gửi theo hành trang bạn đọc, người nghe tất cả ý tưởng và tình cảm của bài ca, với hi vọng có thể tiếp tục lần này lần khác lại chất vấn lương tâm con người và chỉ ra con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu:
Thủy chung tứ mạt mấy lời,
Ghi lòng tạc dạ muôn đời đừng quên
Âu là giữ vẹn răn truyền;
Lập công chịu khó ở miền trần gian;
Mai sau tới nước thiên đàng,
Lãnh phần phúc lộc thanh nhàn. Amen.
Rất mong được quý bạn đọc góp ý.
【Sưu tầm và biên tập: J.B. Hoàng Cảnh Hồng】