Vào Xuân đất trời rộng mở, vạn vật bừng tỉnh sau giấc đông miên, hoa lá khoe màu rực rỡ, chim hót ríu ran, tiếng nhạc lâng lâng dìu dặt, lòng người hân hoan chào đón chúa Xuân, nhất là những cô gái đang tuổi Xuân thì e ấp dưới nắng Xuân...làm tâm hồn thi nhân rạo rực dâng tràn ý thơ và du khách mộng mơ bị lôi cuốn. Sở dĩ mùa Xuân được nhiều người ưa thích nhất trong 4 mùa đúng như cấu ‘ Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn '
Vì thế nước Việt Nam ta được tặng nhiều mỹ từ như Giang Sơn gấm
vóc-Non sông cẩm tú-Đất nước rực rỡ sắc màu, tài nguyên dồi dào. Nơi không buốt
lạnh tuyết phủ như mùa đông Âu châu, không nắng cháy thịt da như Phi châu,
không buồn thảm u buồn nhìn lá vàng rơi rụng tại một số nước Á châu. Riêng Việt
Nam 4 Mùa đều là Mùa Xuân cả vì thế người
Việt vui Xuân hết 2 tháng đầu năm như câu ca dao đổi mới :
Thánh hai nối tiếp bạn bè vui Xuân !
Xuân qua ngoảnh lại còn gì là Xuân !
Dân Việt hiền hòa duyên dáng dễ cảm tình làm du khách ngẩn ngơ cuốn hút theo gót giai nhân, thế nên nhiều chàng trai ngoại quốc chịu khó học tiếng Việt dù đọc dấu hỏi, ngã, nặng, sắc, huyền.. khó khăn- khắc phục mùi mắm ruổc, mắm tôm, sầu riêng, lá mơ ( chấp nhận sầu chung và mơ chung )…nhất là bị em gái Xuân Thì chinh phục nên nhiều chàng đã chọn nơi này làm quê hượng thứ hai.
Nhân dịp Xuân về, với Sắc Xuân rực rỡ muôn màu, với Nhạc Xuân vang vọng vui ca, với Lòng Người rộng mở hân hoan, ta hãy dành ít phút thư nhàn điểm lại đôi dòng Thơ Xuân tiêu biểu của một số Thi nhân tên tuổi. ( Bài viết chỉ đề cập đến một số thi nhân, còn riêng phần văn chương bình dân ca dao, tục ngữ...sẽ giới thiệu trong một bài khác )
*KIM -VÂN-KIỀUNói đến thơ ta không thể bỏ qua danh tác truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du mà người Việt đều biết, có người thuộc lòng cả thi phẩm, đã có đến 42 lần nhắc đến chữ Xuân. Truyện Kiều còn được người nước ngoài hâm mộ dịch sang nhiều thứ tiếng.
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Phong lưu rẩt mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Hai bóng hồng quốc sắc thiên hương, ngày Xuân
cùng nhau dự hội đạp thanh, khiến tâm hồn nhiều chàng thổn thức trong đó có
chàng Kim Trọng :
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
……………..
Gần xa nô nức yến oanh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai,
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Ngày Xuân đã dễ tình cờ mấy khi.
Dù chăng xét tấm tình si,
Thiệt đây mà có ích gì đến ai ? ‘
Chiều Xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng,
Rằng : ‘Trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang..’
Lòng Xuân phơi phới, chén Xuân tàng tàng,
Ngày vui ngắn chẳng tầy gang,
Trông ra ác đã ngậm ngang non đoài.
Tiếng sen sẽ đông giấc hòe,
Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần,
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm Xuân mơ màng.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Rầu rầu ngon cỏ, đầm đầm cành sương,
Rước nàng về đến trú phương,
Bốn bề Xuân tỏa một nàng ở trong.
Lựa lời khuyên bảo mơn man gỡ dần:
‘Một người dễ có mấy thân,
Hoa Xuân đương nhụy, ngày Xuân còn dài.’
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dăm kia.
Kiều nhớ lời thề nguyền cùng Kim Trọng nay đã lỡ làng rồi :
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương Đài,
Cành Xuân đã bẻ cho người chuyền tay !
Ngày Xuân càng gió, càng mưa, càng nồng,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm Xuân ai dễ cầm
lòng được chăng ?
…..
Sinh càng một tỉnh
mười mê,
Ngày Xuân lắm lúc
đi về với Xuân.
Pháp danh lại đổi
tên là Trạc Tuyền,
Sớm khuya tính đủ
dầu đèn,
Xuân Thu cắt sẵn
hai tên hương trà.
Tấm lòng thương nhớ
biết là có nguôi,
Chốc là mười mấy
năm trời,
Còn ra khi đã da mồi,
tóc sương.
Thùng thình trống
trận, rập rình nhạc quân,
Vinh hoa bổ túc
phong trần,
Chữ tình, ngày lại
thêm Xuân một ngày.
Máu theo nước mắt,
hồn lìa chiêm bao,
Xuân huyên lo sợ
biết bao,
Quá ra, khi đến thế
nào mà hay.
Xuân thu biết đã đổi
thay mấy lần,
Chế khoa gặp hội
tràng văn,
Vương Kim cùng chiếm
bảng Xuân một ngày.
Xuân già còn khỏe,
huyên già còn tươi,
Hai em phương trượng
hòa hai,
Nọ chàng Kim đó,
là người ngày xưa.
Chàng Kim lần nữa ngỏ lời muốn gương vỡ lại lành, se duyên cùng Kiều nhưng bị nàng khéo léo chối từ :
Gặp nhau còn chút
bấy nhiêu là tình,
Chừng Xuân tơ liễu
còn xanh,
Nghĩ rằng chưa
thoát khỏi vòng ái ân.
Kiều từ chối hôn nhân cùng Kim vì muốn trọn vẹn cả đôi bề ‘Hiếu và Tình’ :
Một cây cù mộc, một
sân quế hòe,
Phong lưu phú quý
ai bì,
Vườn Xuân một cửa,
đề bia muôn đời.
Tú Uyên xuất thân từ
cửa Khổng sân Trình, nhưng không thích cuộc sống bổng lộc quan trường, ngoài 30
vẫn chưa lập gia đình, tháng ngày vui thú đọc sách ngâm thơ, uống rượu, thong
dong thư nhàn ngao du sơn thủy, ngắm cảnh xem hoa. Ngày Xuân lễ hội tưng bừng,
nam thanh nữ tú tài tử giai nhân đua chen tài sắc.
Truyện khuyết danh kể
một nho sinh tên Trần Tú Uyên đã gặp nàng tiên Giáng Kiều qua bức tranh chàng
mua. Cứ mỗi khi đi học về nhà đã thấy cơm bàn dọn sãn, chàng sinh nghi rình bắt
gặp người đẹp từ trong tranh bước ra xưng là Giáng Kiều từ tiên cung xuống kết
duyên cùng chàng. Nhưng sau khi kết hôn sinh say sưa rượu chè, nàng giận bỏ đi,
chàng hối hận trở về tạ lổi xum họp hạnh phúc sinh được con trai đặt tên Chân
Nhi. Giáng Kiều khuyên Tú Uyên từ giã cõi trần và hai người cỡi hạc lên tiên giới.
Xin giới thiệu truyện
với những dòng thơ Xuân :
Cỏ hoa góp lại một
bầu xinh sao,
Đua chen thu cúc
Xuân đào,
Lựu phun lửa hạ
mai chào gió đông.
Thưởng Xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi,
rượu vơi vơi bầu.
Gió Xuân thổi xuống
chốn này đấy sao ?
Sầu Xuân riêng nặng
một người tương tư.
Nhân duyên đành để
gió trời thổi đưa.
Từ xa sôi lắm, lại
nồng nàn thêm.
Trời thu nâng hợp lại tan,
Ngày Xuân hoa nở
hoa tàn mấy năm ?
Hàn Mặc Tử là một nhà
thơ Công Giáo mang một nét đặc biệt khác với các thi nhân, nhất là từ lúc ông bị
bệnh phong. Thơ ông đậm nét khải huyền từ tâm hồn tràn ra đời sống. Ông sáng
tác trên cả trăm bài thơ đủ thể loại và đề tài, đặc biệt nhiều bài về Xuân-Tết
như : Ngày Tết xa nhà- Ăn Tết- Xuân về- Mùa Xuân chín- Xuân như ý- Xuân đầu
tiên…
Chỉ riêng trong ‘Lệ
Thanh thi tập’ ta đã thấy nhiều câu về Xuân :
Hoa Xuân mơn trớn
can tràng thuyền quyên,
Trời Xuân vắng vẻ
hương nguyền,
Sông Xuân lặng lẽ
con thyền xa xa,
Xuân đi, đi khắp
sơn hà,
Tuổi Xuân chất mãi
tóc da đổi màu.
( Sầu Xuân )
Mượn hoài trời đất
cũng quen tay,
Xuân về bố thí năm
ba chữ,
Tết lại tiêu pha
sáu bảy bài.
( Ai mua không )
Thích tình cô ả ngậm
môi cười,
Non phơi vẻ gấm
hoa chường mặt,
Ngọn gió sông đưa
khoái cả cười.
( Xuân )
Gió Xuân càng lạnh
kẻ cô đơn,
Người vui tấp nập
mòi sung sướng,
Riêng tớ Xuân về dạ
héo hon.
( Ngày Tết xa nhà
)
Tấc Xuân với tấm
lòng thơ não nùng
( Tương tư )
Phút linh thiêng
nhầm gọi thiều quang,
Thiên hạ bình và
trời tuôn ơn phước,
Như triều thiên vờn
lượn khắp không gian.
( Giao thừa )
Chỉ có áo Xuân trắng
trẻo thay,
Xuân ấm đàu tiên
giữa cõi đời,
Mùa Xuân gây dại
song con người.
( Xuân đầu
tiên )
Vừa vui đấy, có khi lại buồn ngay vì ảnh hưởng bởi bệnh tình làm tâm hồn bâng khuâng bồng bềnh phiêu lãng :
Có kẻ theo chồng bỏ
cuộc chơi.
Vui Xuân chung cả
một trời,
Sầu Xuân chỉ để một
người tương tư.
*HỒ XUÂN HƯƠNG Nữ sĩ Xuân Hương sống vào thời trọng nam khinh nữ ‘Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô’. Lại là vợ lẽ nên thơ của bà mang sẵc thái trào phúng riêng biệt thanh tục, nghĩa đen, bóng hòa quyện tài tình như trong nhiều bài thơ Xuân bay bướm tình tứ nhưng không thô tục. Bà được tặng danh hiệu là Chúa thơ Nôm :
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới,
Hai hàng chân ngọc
duỗi song song,
Chơi Xuân có biết
Xuân chăng tá ?
Cọc nhổ đi rồi lỗ
bỏ không !
( Đánh đu )
Tối ba mươi khép
cánh càn khôn, xích chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới.
Sáng mùng một lỏng
then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón Xuân sang.
Đâm toạc chân mây
đá mấy chồn,
Ngán nỗi Xuân đi,
Xuân lại lại,
Mối tình san sẻ,
tí con con.
( Canh khuya )
Đem cái Xuân tình
cắm ở đâu?
Rúc rích thây cha
con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái
ong bầu.
Tên thật Nguyễn khắc
Hiếu, lấy bút hiệu Tản Đà vì sống gần núi Tản sông Đà. Mẹ là một ca sĩ tài hoa,
nhan sắc, nên từ nhỏ ông đã ảnh hưởng nét ‘đường hoa son phấn’ của mẹ.Nhà thơ
trào phúng, ngất ngưởng với chén rượu câu thơ, châm biếm thói đời và ngay cả
chính mình. Ông đa tài giỏi cả thơ văn ca kịch và dịch sách . Hai bài thơ đặc sắc
‘Thề Non Nước & Vịnh bức Dư đồ rách’ mang tâm tư trăn trở cùng Đất nước.
Ông sáng tác 7 bài về Xuân, xin trích dẫn những dòng thơ Xuân trong 4 bài :
Câu thơ chén rượu
là nơi đi về,
Hết Xuân cạn chén
Xuân thì,
Ngàn thu nét chữ
Xuân đề vẫn Xuân.
( Gặp Xuân )
Làm cho bối rối mối
tương tư,
Sương mù mặt đất
người theo mộng,
Nhạn lẳng chân trời
kẻ đọc thư.
( Xuân tương tư )
Ngàn mây non Tản mắt
lơ mơ,
Còn thơ còn rượu
còn Xuân mãi,
Còn mãi Xuân còn rượu
với thơ.
( Ngày Xuân thơ
rượu )
Báo cho hoa biết
ra chào chúa Xuân,
Mỗi năm Xuân đến một
lần,
Thiều quang chín
chục xoay vần chẳng sai.
( Vui Xuân )
Tên thật là Cù Huy Cận,với
những dòng thơ thiên nhiên mở rộng, nét buồn quanh hiu, trữ tình dâng đầy gợi cảm khiến lòng người
cũng bị cuốn hút theo tình đẹp ý hay trong thơ.
Mùa Xuân dậy thức
lòng người héo hon,
Ngón tay tưởng búp
Xuân tròn,
Có người ra dạo vườn
non thẫn thờ.
( Ý Xuân )
Trăm hoa chúm chím
gọi mời đôi ta,
Mới gần đã lại
cách xa,
Giá anh nuốt được
thân ngà em yêu.
( Yêu thương nhớ
nhau )
Xốn sang anh ở tiễn
em về,
Bâng khuâng phố rộn
đời xa vắng,
Anh gọi thầm em,
em có nghe ?
( Một sáng mai
Xuân )
Tên Vương Kiều Ân nữ
sĩ, ghép họ Vương của cha và họ Kiều của mẹ, bút hiệu Tuyết Anh. Bà sáng tác
nhiều bài thơ Xuân và Tết như : Đàn Xuân- Đêm Xuân- Đêm trăng Xuân- Chợ ngày
Xuân- Ngày Tết- Đêm 30 Tết… Thơ có những nét đẹp sống động chân quê đưa ta gần
gũi yêu thương đời sống nông thôn bình yên mộc mạc :
Đưa dài sông lụa dệt
mưa tơ,
Làng xa trong lũy
làng biêng biếc,
Nêu lắng Xuân về
khách lửng lơ.
( Xuân quê )
Bên rào loáng
thoáng khói bay mơ,
Có người qua xóm
nhìn ngon mắt,
Xuân chín trên
cành cam lẳng lơ.
( Xuân quê nhà )
Tên thật Hà Tiệu Anh
hay Hà Anh, cha người Quảng Đông Trung Hoa, mẹ người Việt. Ông đoạt giải Văn Học
Nghệ Thuật 2007. Sáng tác nhiều bài thơ tình lãng mạn được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc,
đặc biệt 2 bài ‘Ngập ngừng & Chiều’- thơ mô tả về mùa thu nhiều hơn là
Xuân.
Gương cũ muốn đi rạng
rỡ soi,
Ước nhỏ như xưa mà
nũng niu,
‘Coong nà coong mẹ, mẹ coong ơi’ ( (Cảm đề )
Nước trong hồ ngập
thủy tinh xanh,
Chim bay cánh trĩu
trong Xuân ý,
Em đợi chờ ai khuất
bức mành ?
( Xuân ý )
Đã dâng em hết buổi
Xuân đầu,
Trời xưa huyền lộng
màu hoa nắng,
Trong thoáng thơ
vàng len ý đau !
( Trong nắng
trưa )
Nhà thơ của đồng quê với những câu thơ hương đồng
gió nội đậm nét chân quê như bài ‘Lỡ bước sang ngang’ đọc lên ta tưởng là ca
dao. Nhà thơ có đến 17 bài được phổ nhạc như: Dậu mồng tơi-thôn đoài ngồi nhớ
thôn đông – Hôm qua em đi tỉnh về - Chiều về- Tương tư..hay tâm sự cô gái đò đã
lỡ lời hẹn thề năm nào :
Xuân đã đem mong nhớ trở về,
Lòng cô gái ở bến
Xuân kia,
Cô hồi tưởng cách
ba Xuân trước,
Trên bến cùng ai
đã nặng thề.
( Cô lái đò )
Cô gái Xuân mơ
chuyện vợ chồng,
Đôi tám Xuân đi
trên mái tóc,
Đêm Xuân cô gái có
buồn không ?
( Đêm Xuân )
Xuân đã sang đò chở
cố nhân,
Người ở bên kia
sông cách trở,
Có về Chiêm Quốc
như Huyền Trân ?
( Nhạc Xuân )
*ĐINH HÙNGMột nghệ sĩ đa tài cả về thơ văn dịch thuật.Thơ tình buồn đậm sắc thái hư vô. Ký bút hiệu Thần Đăng trong thơ châm biến và Hoài Điệp Lang khi dịch tiểu thuyết. Nhận giải văn chương 1962 với tác phẩm ‘Đường vào tình sử’ và phụ trách Thi ca Tao Đàn trên Đài Phát thanh Sài gòn 1955. Thơ ông nghe âm điệu như ‘thơ văn xuôi’-
Đoan
thơ ‘Ác mộng ‘ sau phản ảnh phần nào trong thơ diễm tình ảo mộng ta tường gặp trong thơ Đinh Hùng :
Hôm nay chim yến
vui ca. Rau cúc bên sườn núi trắng. Xuân này có nắng giao hòa, ta sẽ cùng ra biển
lặng. Hôm nay gió bão cùng mây, rời xa những miền tuyết trắng. Tôi từ biển nắng
về đây. Mừng hội Xuân này đẹp !
( Âm hưởng )
( Bao giờ em lấy chồng )
( Bướm Xuân )
( Đường vào tình sử )
*THẾ LỮ
Tên thật Nguyễn đình
Lễ, sau đổi là Nguyễn thứ Lễ, bút hiệu Thế Lữ hay Lê Ta. Ông là một trong những
cây bút chủ lực nhóm Tự Lực Văn Đoàn, vừa là nhà thơ nhà văn và kịch nghệ sân
khấu.
Nổi tiếng với bài thơ ‘Hổ nhớ rừng’ để tặng
chí sĩ Phan Bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự.
Trong lúc gần xa
pháo nổ ran,
Rũ áo phong sương
trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ
đón Xuân sang.
( Giây phút chạnh
lòng )
Trong lúc trần
gian dưới bóng theo,
Của buổi thanh
bình thong thả sống,
Từ nơi thành thị tới
thôn quê.
( Đời thái bình )
Nắng thêm tươi nhuộm
cảnh trong mơ,
Bóng cây trên cỏ
vươn mình ngả,
Tha thướt Nàng
Xuân bước hững hờ.
( Xuân bâng
khuâng )
Tiến lên ngửa mặt
đón mưa Xuân,
Vui như đàn trẻ
săn theo bướm,
Ta mải mê theo đuổi
mấy vần.
Ánh Xuân lướt cỏ Xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một
hai kim đồng,
Tiếng đưa hiu hắt
bên lòng,
Buồn ơi xa vắng
mênh mông là buồn.
( Tiếng sáo thiên thai )
*CHẾ LAN VIÊNTên Phan ngọc Hoan,
bút danh Mai Lĩnh. Thơ nội dung phong phú, mở rộng tình cảm cuộc đời
qua những câu thơ lãng mạn với nỗi buồn nhẹ nhẹ lại thấm sâu tâm hồn người đọc. Ông nổi tiếng với tác phẩm “Điêu tàn” mang sắc thái hoài cổ thương tiếc một quá khứ chỉ còn trong kỷ niệm.
Tôi có chờ đâu có
đợi đâu,
Đem chi Xuân đến gợi
thêm sầu,
Với tôi tất cả như
vô nghĩa,
Tất cả không ngoài
chữ khổ đau.
( Ghét Xuân )
Về đây đem chắn nẻo
Xuân sang,
Nhặt lấy cho tôi
những lá vàng,
Với cả hoa tươi mỗi
cành rụng.
( Nhớ Xuân )
Với tháng ngày biền
biệt đuổi nhau trôi,
Xuân đừng về, hè đừng
gieo ánh lửa,
Thu thôi sang,
đông thôi lại não lòng.
( Những sợi tơ lòng )
Tre gốc già, lá mấy
màn buông phủ,
Màn Xuân khoác áo
vàng như lụa cũ,
Hồn thôi nghe hồn
khóc từ trong hồn.
( Khóc chiều )
*XUÂN DIỆU
Một trong những tiêu
biểu của phong trào Thơ Mới, lãng mạn, tình buồn, nhiều bài thơ về trăng và
tình yêu ẩn dấu dưới bóng nàng Xuân tuổi Xuân Thì.
Thế là Xuân ! Tôi không hỏi chi nhiều,
Xuân đã sẵn trong
lòng tôi lai láng,
Xuân không chỉ ở
mà Xuân ba tháng,
Xuân là khi nắng rạn
đến tình cờ,
( Xuân không mùa
)
Xuân đang tới, là
Xuân đang qua,
Xuân đang non,
nghĩa là Xuân đã già,
Mà Xuân hết, nghĩa
là tôi đã mất.
( Vội vàng )
Thiếu nữ nhìn
sương chói mặt trời,
Bao buổi đầu Xuân
êm ái thế,
Cánh hồng kết những
nụ cười tươi.
( Nụ cười Xuân )
*TÚ XƯƠNGTên Trần Tế Xương, 24
tuổi mới đỗ Tú tài và thi 5 lần không đỗ Cử nhân, lại sống vào buổi giao thời người học chữ Pháp được trọng dụng, kẻ học
Hán Nôm bị loại bỏ. Vì thế ông trở nên nghèo nàn, bất đắc chí, lời thơ châm biếm
đời và tự trào lộng chính mình.
Nhân tình trắng thế
lại bôi vôi,
Không dưng Xuân đến
chi nhà tớ,
Có nhẽ trời mà
đóng cửa ai ?
( Câu đối Tết )
Sao đến đầu Xuân lắm
thế a !
Ý hẳn thịt xôi lên
chặt dạ,
Cho nên con tự mới
lòi ra.
( Ngày Xuân lòng tỏ
)
Muốn mua chịu nhà
hàng lại lạ,
Chị em ta cùng
nhau giữ giá,
Đến bây giờ ngã cả
chẳng ai nâng.
( Tết cô đầu )
*VŨ HOÀNG CHƯƠNGÔng có bằng cử nhân
toán học, từng là công chức, giáo sư, nhà văn, nhà thơ. Ông kết hôn với bà Đinh
thục Oanh chị nhà thơ Đinh Hùng-Người có nhiều uy tín trong giới văn học trong
và ngoài nước. Năm 1959 đoạt giải Văn học Nghệ thuật với tác phẩm ‘Điêu tàn’.
Ông đại diện cho Văn Bút VN tham dự nhiều Hội nghị Quốc tế và là chủ tịch Văn
bút VN từ năm 1969 đến 1973.
Lời thơ trầm lắng, nhiều nhạc tính, đôi khi hoài cổ.
Cao sâu từng nhập bóng cây già,
Cây vẫn thân xưa
bóng chẳng nhòa,
Vườn trái băng
sương trăm thức có,
Xuân còn thúy vũ một
cành hoa.
( Tết đề mai )
Mê man ngày Xuân đắm
yêu mà thơ..
………..
Xuân và thơ ta
cùng mê đắm,
Cao lời ca cho
lòng tươi thắm.
( Khúc hát chào
Xuân )
Ai cùng ta bối rối
làng Xuân,
Cánh bèo ngơ ngác
giang tân,
Màu xanh chất cứng
bao lần nổi trôi.
( Nỗi nhớ mùa Xuân )
*ĐOÀN VĂN CỪ Than gia phong trào Thơ Mới, nổi tiếng với bài
thơ ‘Chợ Tết’ được Hoài Thanh- Hoài Chân giới thiệu trong ‘Thi nhân VN’-Thi sĩ
đồng quê, lời thơ chất chứa chân tình cuộc sống nơi thôn dã như nhà thơ Nguyễn
Bính.
Mấy thày khóa gò lưng trên cánh phản,
Tay miệt
mài hí hoáy viết thơ Xuân,
Cụ đồ nho
dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm
đọc vài hàng câu đối đỏ.
( Chợ Tết )
Có một
hàng cau chạy trước hè,
Một mảnh
vườn bên rào dậu nứa,
Xuân về
hoa cúc nở vàng hoe.
( Tết quê bà )
Cụ già quần liễu đỏ nhòa sang nhau,
Đàn ông
khăn nhiễu đội đầu,
Đôi giầy
da láng khăn trầu đỏ hoe,
Đàn bà yếm
đậu vàng hoe,
Hàm răng
đen nháy, váy lê thẹn thùng.
( Chơi Xuân )
Đón tôi về
xem hội ở làng bên,
Suốt ngày
đêm chiêng trống đánh vang rền,
Người lớn
bé mê man xem hát bội.
( Đêm hội Xuân )
*KẾT : XUÂN & THI NHÂNNói về Xuân với thi nhân không thể trọn ý hết lời, ta chỉ
điểm xuyết vài dòng thơ Xuân của một số thi nhân tiêu biểu để chung vui nhân dịp
Xuân về. Người viết xin đóng góp vài hàng với ước mong
Mùa Xuân thanh bình sớm
đến cho Quê hương Việt Nam thân yêu.
Nhưng dùng thơ ca
lịch sử hùng anh,
Của một dân tộc quật
cường đấu tranh,
Bao lần kẻ thù Bắc
phương xâm lược.
Tổ tiên ta quyết giữ gìn Đất nước,
Đã dệt nên bao
trang sử liệt oanh,
Đuổi giặc khiến
chúng chạy trốn tan tành,
Ôi trường ca Xuân
Việt Nam muôn điệu!
Khí thiêng Sông
Núi dâng đầy tuyệt diệu,
Đem quyết tâm xây
dựng lại Quê hương,
Để Dân tộc sống Tự
chủ Phú cường,
Chính là Huyền sử
Mùa Xuân trường cửu !
Xuân Nhâm Dần kính chúc Quý Vị an khang đầy niềm vui !
Mong thông cảm những
điều thiếu sót !
Đây là những Nàng Xuân Nước Việt của 3 miền Bắc Trung-Nam làm cho Thi nhân và du khách bị cuốn hút theo.
Con gái Việt Nam dễ thương xưa nay là ᵭiều khôпg thể chối cãi. Tuy nhiên nơi nào là vùng đất siпh ra nhiều cô gái xinh đẹp nhất ?
Từ xưa đến nay, con gái Việt Nam thường được đánh giá cao bởi vẻ đẹp dịu dàng, thướt tha trong các tà áo dài truyền thống khi tham gia các cuộc thi sắc đẹp trên thế giới. Dọc mảnh đất hình S, có rất nhiều địa phương nổi danh bởi là nơi sản sinh ra nhiều người con gái đẹp.
Nếu con gái Tây Bắc được ví như các đóa hoa rừng tinh khôi, gái Hà thành làm say đắm lòng người bởi vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch thì con gái miền Tây ghi điểm nhờ sự chân chất, mộc mạc, đáng yêu.
Từng vùng đất lại góp phần tạo nên các vẻ đẹp riêng ở người con gái. Vậy đâu mới là nơi sản sinh ra nhiều tuyệt sắc giai nhân nhất Việt Nam, cùng khám phá ngay trong bài viết dưới đây để xem địa phương của bạn có nằm trong danh sách này không nhé.
10. Hải Phòng
Con gáį Hải Phòng mang nét đài các xen lẫn chút hiện đại. Giữa một rừng người đẹp, những cô gáį Hải Phòng vẫn toát lên nét cuốn hút riêng bằng sự quyến rũ, thôпg minh và sắc sảo. Hải Phòng đẹp nhất là con gáį Thuỷ Nguyên với làn da trắng sứ ngọt пgàѻ.
Con gáį Hải Phòng chiếm vị trí khá cao trong các cuộc thi nhan sắc
9. Tây Bắc
Con gáį Tây Bắc mang vẻ đẹp cuốn hút, dáпg người câп đối là một trong những ưu ᵭiểm mà nhiều phụ nữ vùng khác hiếm có được. Những người lần ᵭầʋ đến đây còn kɦôпg tiếc lời khen tặng cho những bôпg hoa giữa chốn núi rừng пày.
Các пàng được ví như bôпg hoa của đại ngàn
8. Quảng Ninh
Nói đến vùng đất sản sinh ra những cô gáį đẹp sẽ thật thiếu sót nếu ɓỏ qua Quảng Ninh. Dẫu sống ở vùng duyên hải Đôпg Bắc Bộ, пổi tiếng là mỏ than lớn của cả nước nhưng con gái Quảng Ninh lại sở hữu làn da trắng ngần.
Đặc biệt, những cô gáį đất phật Yên tử, thôп Năm Mẫu được mệnh danh là thôn cung nữ được vua chúa ưu ái vì vẻ đẹp đoan trang, đài các.
7. Đà Lạt
Thừa hưởng một khí hậu ôn hòa, dịu mát quanh năm nên vẻ đẹp ngọt ngào của con gái Đà Lạt làm say lòng bao du khách cũng chẳng còn là ᵭiều khó hiểu.
Đà lạt vốn dĩ đã mộng mơ, mỗi khung cảnh mỗi thời khắc đều lãng mạn thì việc bất ngờ bắt gặp nụ cười tỏa nắng, má đỏ hây hây của thiếu пữ Đà Lạt ẩn sau chiếc khăn len đã đủ ƙɦiếп nhiều anh chàng say cảnh lẫn say tình.
Những cô gái Đà Lạt với đặc trưng da trắng muốt, má đỏ hây hây
6. Mường
Con gáį Thái – Mường Lè Thanh Hóa từ xưa đến nay đều maпg vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà. Tương truyền cách đây kɦѻảng trăm năm, vào một buổi sáпg, một người con gáį có vẻ đẹp mặn mà đang ngồi dưới chân nhà sàn chải tóc, thì bỗng đâu từ xa có một chú hổ tiến nhanh lại rồi vồ lấy cô gáį bỏ ᵭi.
Dâп làng nhiều lần vào rừng tìm kiếм trong vô vọng, thì mãi về sau mới nɦậп được tin, cô gáį ấy vẫn sống khỏe mạnh nhưng vì hổ yêu mến tài sắc nên khôпg cho trở về.
Trải qua thời gian con gái Tháį nơi đây vẫn làm xiêu lòпg nhiều cɦàng trai
5. Mường So (Phong Thổ, Lai Châu)
“Nơi hoa ban nở thành người con gái Thái” – nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã từng thốt lên những vần thơ khi bất ngờ bắt gặp hình bóng dịu dàng e ấp của những cô gái nơi đây. Vẻ đẹp của con gáį Thái – Mường So còn được truyền nhau qua sự tích cổ:
Ngày trước có пàng Han trắng đẹp như hoa chớm nở trong áпh sương mai. Nàng Han xuất thâп trong một gia đình người Thái nghèo ở Chiềng Sa (nay là xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).
Nhiều người tin rằng, phụ пữ nơi đây là “hậu duệ” của tiên giáпg trần.
4. Huế
Con gái xứ Huế gắn liền với hình ảnh tà áo dài tím, giọng nói nhẹ nhàng như rót mật vào tai đã dần trở thành một đặc trưng, một biểu tượng của vùng đất пày.
Là vùng đất cố đô, cung đình, nên nét đoan tṙang, từ ᴛốn, nhã nhặn đã ăn sâu vào lối sống
Áo dài thướt tha của con gái Huế làm xiêu lòпg biết bao chàng tṙai. Và minh chứng cho ᵭiều пày, là nếu có dịp ngang qua Quốc học Huế kɦôпg ít người phải xuyến ҳao khi bắᴛ gặp hình ảnh những cô пữ siпh dịu dàng trong tà áo dài.
3. Nha Mâп (Cao Lãnh, Đồng Tháp)
Người xưa tương truyền câu nói: “Gà пào hay bằng gà Cao Lãnh, gáį пào bảnh bằng gái Nha Mân” để ca ngợi vẻ đẹp nổi trội của phụ nữ nơi đây.
Con gái miền Tây không chỉ có nước da trắng mà còn có sự mộc mạc, chân chất, thật thà khiến bao chàng trai mê mẩn (ảnh chụp màn hình báo Phụ Nữ News).
Đến nay, vùng đất пày còn truyền nhau giai thọai: vua Nguyễn Ánh bị triều Tây Sơn truy ᵭuổi khi ᵭi ngang qua vùng đất này, để thuyền đỡ cồng kềnh đã bỏ lại đây hàng trăm cung tần mỹ nữ.
Vẻ đẹp ngọt ngào của con gái Nha Mân được cho là пổi trội hơn so với những vùng lân cận.
Về sau, những giai nhâп này kết hôп và siпh con rồi tiếp tục duy trì vẻ đẹp qua nhiều đời sau.
2. Hà Nội
Từ hàng thế kỉ trước, gái Hà Thành đã đẹp nức tiếng gần xa. Vẻ đài các, thanh tao, tṙang nhã, lối ứng xử tinh tế đã làm xiêu lòng biết bao người.
Cɦỉ tính riêng cách nói năng, con gáį Hà Thành đã đủ làm say lòпg người .
Thậm chí, thiếu nữ Hà Nội còn là nguồn cảɱ hứпg dồi dào để ᵭi vào những tác phẩm văn thơ nhạc họą nổi tiếng.
1. Tuyên Ǫuaпg
Đứng ᵭầu bảng xếp hạng kɦôпg thể khôпg kể đến cô gái Tuyên Ǫʋaпg. Người xưa có câu “Chè Thái, Gái Tuyên” để chỉ những cô gái thanh tao, làn da trắng ngần, vẻ đẹp thanh thoát đầy thu hút.
Chè Tháį, gáį Tuyên là 2 đặc trưng пổi bật của vùng đất Tuyên Ǫʋaпg và Tháį Nguyên
Thậm chí nhiều du khách còn truyền nhau: một lần đến đây sẽ say đến quên đường về!
Tâm Tuệ