Tình yêu là một đề tài muôn thủa, chưa bao giờ nói đủ và nói hết được. Chính Chúa cũng đã nói: “đàn ông ở một mình không tốt”(St 2:1). Và chính Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ. Từ đó, người nam và người nữ luôn hướng về nhau, để bổ túc cho nhau.
Là con người bằng xương, bằng thịt, thì linh mục và tu sĩ cũng không ngoại trừ. Biết rằng đi tu là đi “ngược dòng” đời và trên dòng đời đó đã không ít có những chướng ngại, và cũng có không ít người vấp ngã. Có người thì đứng dậy được và cố gắng vượt qua, nhưng cũng có không ít người đứt gánh giữa đường, đành bỏ “cuộc chơi”.
Và tôi cũng không ngoại lệ. Sinh ra và lớn lên trong một dòng tộc gia giáo, tôi được giáo dục và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của ông bà tổ tiên để lại, không làm những điều sai trái, để tiếng xấu cho người đời khinh chê. Điều đó tôi đã thuộc nằm lòng ngay khi còn nhỏ.
Thời thơ ấu, ước mơ của tôi là: lớn lên làm thầy giáo, lập gia đình, có vợ có con, sống vui, hạnh phúc giữa đời thường, chứ không phải đi tu, trở thành linh mục. Tôi đã biết yêu và rung động trước vẽ đẹp của tình yêu từ lúc lên 15 tuổi, đúng tuổi trăng rằm.
Sau khi tốt nghiệp cấp 3, ba chìm bảy nổi, tôi vào quân đội, đi học nghề và hành nghề. Khi đi tìm hiểu ơn gọi, tôi mới mon men được đến cổng trường Đại học Sư phạm Huế. Ngày nhập học, từ lầu 3 của trường ĐH, đứng nhìn ra cầu Tràng Tiền và dòng sông Hương thơ mộng, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng vì ước mơ của mình sắp thành hiện thực.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không đi dạy học, lại rẽ sang một ngã khác mà chính tôi cũng không sao hiểu được. Rồi trở lại với đời tu, nhưng nó cũng chẳng bằng phẳng gì. Phải “trầy da tróc vảy” tôi mới trở thành linh mục.
Là một nam nhi, năng động, vui tính, dễ hoà nhập với môi trường và hoàn cảnh, tôi đã lăn lộn giữa đời bon chen đầy cảm bẩy, và bước đi một cách tự tin bằng chính đôi chân, khối óc và con tim của mình, xem đó là một ân huệ của Thiên Chúa ban tặng cho mình.
Trong khoảng thời gian dài đó, tôi đã gặp biết bao nhiêu con người. Người tôi yêu cũng có, người yêu tôi cũng nhiều. Những người đã đi ngang qua đời tôi, tất cả họ đều dễ thương, dễ mến và đáng yêu.
Khi phỏng vấn đề được nhận vào đời tu, cha phụ trách đã hỏi tôi: anh đã biết yêu chưa?”. Không chần chừ tôi trả lời ngay: “thưa cha con đã biết yêu rôi”. Thế rồi ngài cười và nói: “tốt”. Thời gian đi học tiếng Nhật và thời gian vào chủng viện, thời gian đi giúp xứ là thời gian “được chăm sóc” kỹ nhất về những mối quan hệ với bên ngoài...
Vì thế, nhiều chủng sinh đã dè dặt, dòm trước, ngó sau, thậm chí luồn cúi, để tìm cách lách qua cửa hẹp mà đi. Còn tôi thì cứ sống tỉnh bơ vậy, không lo lắng, không sợ bị đuổi về, thậm chí có lúc tôi muốn được đuổi về. Cho nên sống rất thoải mái, tự nhiên, vì tôi nghĩ ơn gọi là một huyền nhiệm, nếu Chúa muốn, Chúa chọn, thì không ai ngăn cản được, bản thân mình cứ sống thành thật, ngay thẳng, thì chẳng sợ gì ai, cứ cố gắng sống hết mình, để khỏi ân hận sau này, không xấu hổ với lương tâm mình là được. Thế là cứ vô tư mà sống giữa đất trời tự do.
Thế nhưng “nếu đường đời bằng phẳng cả thì anh hùng hào kiệt chẳng là chi”! Và giá như không có những gian nan thử thách, thì những cố gắng, hy sinh của chúng ta nào có ích gì, phải không?.
Hầu hết bạn bè và người tôi yêu cũng như người yêu tôi đều đã lập gia đình và có con cả rồi. Điều đáng nói là người yêu tôi và người tôi yêu, họ không phải chỉ toàn là con gái, mà cả những người phụ nữ đã lập gia đình có chồng có con rồi. Có những người yêu kiểu “say nắng” nhất thời, có người thì âm ỷ như lửa trong bếp lò vậy…
Quan điểm của tôi, là nếu lập gia đình thì muốn tìm người cùng quê và có cùng tôn giáo. Không muốn lấy vợ xa, đặc biệt là người nước ngoài. Nên từ lúc còn nhỏ cái ấn tượng đó đã in sâu và theo tôi suốt cả một chặng đường dài. Nhưng kể từ lúc sống xa quê và khi đi ra nước ngoài, thì cái quan niệm đó đã dần thay đổi. Bỡi, tình yêu đâu có phân biệt tuổi tác, quốc tịch hay giống nòi... mà nó vượt lên trên tất cả, như thế mọi gọi là yêu. Kể từ đó, lại phát sinh ra tình yêu mới, mà trước đến giờ tôi đã chưa nhận ra, hoặc vì đã yêu theo kiểu truyền thống.
Thỉnh thoảng đó đây, trong và ngoài nước, khi nghe ở đâu đó có linh mục hồi tục ra đời lấy vợ, lúc đó tôi cũng bị sốc và có cảm giác nuối tiếc... Ở Nhật Bản linh mục người bản xứ cũng có, linh mục người ngoại quốc cũng có. Điển hình có vị linh mục dòng đã bước qua tuổi 75 rồi, mà cũng xin Bề trên cho phép hồi tục.
Nhiều người nghe vậy thắc mắc đủ điều, nhưng vị linh mục này nhẹ nhàng trả lời: “vì tôi muốn sống với ơn gọi của mình”. Ngài giải thích rằng: “đã suốt mấy chục năm qua, tôi đã thao thức rất nhiều về ơn gọi của bản thân mình, nhưng vì đã trót ăn cơm và được nhà dòng nuôi dưỡng trong nhà Chúa, nên tôi đã cố gắng sống cho đến giờ phút này. Giờ đây tuổi đã già, về hưu rồi không còn đóng góp được gì cho nhà dòng nữa, nên nói ra sự thật, để xin phép sống thật với lòng mình, với Chúa, với nhà dòng và với anh em, với giáo dân, cho thanh thản tâm hồn”. Sau khi nghe những lời đó, Bề trên đã cười và sẵn sàng chấp nhận lời đề nghị của Cha già để giải quyết, lo thủ tục cho ngài hồi tục như ước nguyện lúc cuối đời.
Đời tu là vậy đó! Ơn gọi là vậy đó ! Không ai nói trước được điều gì cả. Hiện tại thử thách vẫn phải sống đối mặt và tìm cách vượt qua hằng ngày, còn tương lai ai mà biết được. Chỉ có Chúa mới biết mà thôi.
Cho nên, tu dòng hay tu triều hằng tháng và hằng năm đều có tổ chức tỉnh tâm, để nhằm mục đích dành thời gian yên tỉnh, tạm gác lại những ồn ào giữa đời thường, trước hết là để tìm gặp gỡ Chúa cách thân mật hơn, để hâm nóng và làm mới lại tinh thần, để ngang qua đó, nhìn lại hành trình làm người, hành trình cuộc sống, hành trình ơn gọi, để tạ ơn, để nhận ra bàn tay dẫn dắt của Thiên Chúa, nhằm mục đích sống tốt, sống đẹp, sống yêu thương và cũng là dịp để nghỉ ngơi đôi chút, như lời Chúa dạy.
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm năm với linh mục đoàn của giáo phận về, tôi quyết định viết bài chia sẻ này.
Thực sự mối tình của tôi với người phụ nữ đã có chồng có con này, không phải là quá bất ngờ đối với tôi. Vì người này đã chủ động yêu tôi trước, nhất là khi tôi cô đơn trống vắng một mình nơi đất khách quê người trong 4 bức tường của căn nhà xứ rộng rãi và trống vắng này. Mối tình này đã có từ trước, nhưng vì tôi quá vô tư, nên đã không để ý tới. Nhưng mưa dầm thì thấm lâu. Ngon lửa âm ỷ này đã “gần rơm lâu ngày cũng bén” thế là tôi đã bắt đầu yêu thật lòng, một tình yêu không lừa dối, kể từ đêm tôi chủ động cầm tấm hình của “người đẹp” lên hôn theo phản xạ tự nhiên.
Điều đáng nói là cả chồng và con đều biết việc này. Chồng bà là một người đàn ông Công chính, hiền lành và ít nói, nhưng rất mực thương yêu gia đình, còn người con thì rất tốt, rất thân thiện với tôi và cũng yêu tôi nhiều lắm.
Đọc đến đây, thay vì “ném đá” xin mọi người thương thêm lời cầu nguyện cho tôi được sống thật với lòng mình và trung thành với mối tình này cho đến giờ phút cuối, để trọn tình, vẹn nghĩa với người mình yêu. Xin chân thành cám ơn.
Phù tang 08/02/2022