Chỉ một cái tin “Khu vườn nhà tôi có các loài
cây phát ra nhạc. Địa chỉ thôn… xã… huyện…”, kèm theo tấm ảnh chụp ngôi vườn
đăng trên facebook, ông Biên đã kéo được nhiều người tò mò tìm đến. Tháng trước,
có đến mươi nhóm tìm đến rồi bỏ về ngay từ vòng đầu. Không ai ấn tượng với
chuyện bầy chim sà xuống gần gũi con người. Họ cho điều đó không đáng quan tâm.
Ông bà Biên thất vọng, chẳng mời ai vào sâu vườn. Họ về. Hôm qua hai người đến rồi
chẳng đủ bình tĩnh nán lại. Hôm nay gần chục người, trong đó có ba nhà báo,
chuẩn bị kỹ lưỡng thiết bị flycam, máy ảnh, máy quay. Họ hồ hởi nhập cuộc làm
mấy cái tin sốt dẻo lạ lùng. Song ai cũng mắt tròn mắt dẹt không phải vì tìm
thấy khu vườn rắc nhạc xuống lòng ngôi làng. Họ chẳng thấy gì ngoài gió. Gió
bao giờ chẳng bắt những cái cây đung đưa, tán lá xạc xào. Cây phát ra tiếng
kêu, ví von là phát ra nhạc, cây hát. Người có đồng tử nở toác, tóc cháy sém
lạu cạu:
- Có gì đâu mà ông già chơi quả giật gân. Làm
anh em mất công kéo đến. Nếu có thật, đề nghị ông chủ cho xem vườn nhạc. Xem
những cái cây phát ra nhạc thế nào. Hay ông cụ chơi trội nhằm mục đích xấu!
Mấy vị khách bấm bụng. Ở đời chuyện đồn thổi ma
quái nhiều vô kể. Chuyện bịa tạc hòng nổi tiếng hoặc để bán hàng cũng đâu có
ít. Vừa rồi cơ quan chức năng phanh phui ra mấy trường hợp quảng cáo những thứ
thuốc như tiên dược, trị được cả ung thư, biến phụ nữ vô sinh có thể đẻ sòn
sòn. Hóa ra đó chỉ là những cái rễ cây đào trong vườn, trên rừng, được sơ chế,
sấy khô, đóng gói. Rồi dán lên đó đủ mọi từ ngữ có cánh. Mấy ông bà già vùng
quê ở đây rỗi việc, có thể nghĩ ra bất cứ thứ gì. Kể cả chuyện cây biết chạy,
lợn biết bay, cá biết hót chứ đừng nói đến chuyện cây phát ra nhạc.
Rất hiểu những ánh mắt nghi hoặc, mấy vóc dáng
thất vọng, ông Biên điềm tĩnh, nở một nụ cười chan rất nhiều niềm hãnh diện.
- Các anh không nghe thấy, nhưng chúng tôi nghe
được. Đấy. Nếu chỉ nhìn bằng mắt thường, nghe bằng tai thường thì đi mỏi gối
bên ngoài lẫn bên trong vườn vẫn không thấy nhạc. Cây hoàng lan này, chay kìa,
chỗ kia là cây sưa đỏ, cây nhãn, rồi có cả cây sen trong ca dao nữa. Chúng vẫn
đang hát đó.
Hướng cả bàn tay về phía mấy ông bạn già vẫn
mải đánh cờ, ông Biên tiếp:
- Đấy, mấy ông bạn tôi cũng công nhận. Việc của
cây là hát, hát cho các bạn tôi vui vẻ đánh cờ. Tất thảy đều thoải mái.
Mấy ông bạn già từ bấy ngồi cạnh bàn cờ và ấm
trà ướp sen thơm phức, ngoảnh lại, gật đầu thích thú cười. Đương - người xách
máy quay vẻ mệt dỉu dả, ngồi thượt xuống gốc cây chay:
- Nhưng chúng cháu chẳng nghe thấy gì. Chỉ thấy
đây là vườn cây. Khác gì bao khu vườn làng quê khác, rặt màu xanh với mấy con
chim. Tưởng chuyện lạ. Ai dè…
Một người bạn của vợ chồng ông Biên đưa tay lên
quá đầu:
- Ngay cả thứ nhạc được sáng tác từ các nhạc
sĩ, cũng có phải ai cũng biết nghe. Huống hồ nhạc từ thiên nhiên, từ một vườn
cây.
Sau cùng tất cả được mời nước bằng thái độ
trọng thị. Các anh đã về đến quê chúng tôi thì cũng uống chén nước, thưởng thức
cái không gian bình yên đã. Tôi đoán là ở ngoài phố các anh khó tìm được một
nơi thế này đấy. Ông Biên vừa pha lại nước vừa nói. Bảy tám chiếc ghế được kéo
ra. Khách khứa được mời thưởng thức hoa quả trong vườn. Nào chay, táo, ổi, mít…
Toàn những thức quả quê mùa dậy hương. Khách khen ngon. Rồi mấy người vội vàng
bỏ ra về. Ngồi lại chỉ còn Đương và Thức. Hai nhà báo có vẻ điềm đạm, cứng tuổi
nhất trong nhóm gần chục người chẳng hẹn mà gặp. Thôi thì đã về đến đây, cứ
bình tĩnh. Người này bảo người kia.
Bà Biên bổ thêm quả. Ông Biên chiêu thêm nước.
Chim chóc ríu rít trên đầu làm nhạc. Đã vậy không để các anh chờ lâu nữa. Các
anh sẽ được thấy sự kỳ diệu của những nàng ca sĩ bầu trời. Bà Biên đứng dậy,
trở ra vớ lấy bát thóc dưới gốc cây. Bà nhón từng nắm, tung ra sân, tức thì cả
bầy chim sẻ trên những tán cây sà xuống, lích chích mổ, và múa. Hình ảnh này
gây bất ngờ lớn với Đương và Thức. Họ chưa từng thấy cảnh này. Chuyện ném thóc,
gạo cho gia cầm ăn là thường. Nhưng loài chim trời… Làm sao chúng có thể gần
gũi với những người nơi này đến thế? Chúng trở thành những ca sĩ hoạt bát đúng
nghĩa.
Lúc này, ông Biên đứng dậy, đưa cánh tay của
mình ngang người, mấy ngón tay vẫy vẫy:
- Nào các con, lại đây với bố.
Tức thì ba chú chim nhỏ nhắn bay lên, nhẹ như
cục bông, nhảy nhót trên cánh tay ông lão. Ông Biên hướng về phía hai vị khách:
- Cảnh tượng này, các nhà báo đã thấy chưa?
Thức thốt lên:
- Tuyệt vời!”.
Đúng là
một cảnh tượng anh chỉ thấy trên phim, hoặc qua bạn bè kể sau những chuyến công
tác nước ngoài, chim chóc dạn dĩ đến nỗi cứ quẩn quanh bên người. Mấy chú chim
nhảy múa trên tay ông già chẳng phải thứ gì hoành tráng. Cũng không cao siêu.
Nó thể hiện con người và loài chim gần gũi, sống bình yên bên nhau. Ông còn dịu
dàng gọi “con”, xưng “bố” kia mà. Điều này chứng tỏ ông bà Biên đã thương chúng
thế nào nên mới được chúng thương lại.
- Để chúng đậu lên tay cháu được không? - Thức
đề nghị, rồi anh đưa bàn tay của mình ra.
- Các con đến với khách nào.
Vừa nói, ông Biên vừa đưa bàn tay của mình sát
vào bàn tay của Thức. Những chú chim lập tức chuyền ngay sang tay Thức. Cũng nhảy
múa hồn nhiên. Cũng lích chích ca hát. Đương không đừng được tò mò. Anh tiến
gần hơn bên Thức: “Chúng đáng yêu quá!”. Chủ và khách đều mãn nguyện. Thức thấy
tâm phục khẩu phục. “Phải thế chứ. Phải thế chứ…”. Anh cứ nhẩm đi nhẩm lại.
Hai vị khách chưa hết ngạc nhiên, tay huơ huơ
đùa bầy chim đang xuống mỗi lúc một đông. Ông Biên mời họ vào sâu trong vườn.
Những ông già bạn ông Biên vẫn thản nhiên chơi cờ. Một chú mèo nằm cuộn khoanh
bên bức tường rêu. Cạnh đó là bể nước mưa, xây gạch, bên ngoài cũ kỹ, rêu
phong. Nóc bể cuốn hình vòm. Miệng bể cũng được uốn hình vòm, nom cũ kỹ nhưng
sạch sẽ. Chỉ vào đó, ông Biên nói: “Bể đựng nước mưa, tuổi đời 120 năm. Gia
đình tôi vẫn hứng từ trời, ăn uống, pha trà bằng bể đó”.
Đi một đoạn nữa, khách ngước nhìn cây chay cao
cỡ mười lăm mét. Ông Biên giải thích, cây đó họ dâu, lấy vỏ ăn kèm trầu cau,
quả thơm, tuổi bằng tôi, bảy lăm.
Cách cây chay chừng mươi bước chân là cây khế
lúc lỉu quả, điểm xuyết những chùm hoa tím xinh, tán rộng bao trùm một khoảng
lớn. Đương và Thức trầm trồ. Cũng là những người xuất thân quê mùa, ra phố làm
việc hai chục năm nay, đi khắp nơi tìm hiểu, viết báo, chưa bao giờ họ thấy cây
khế to đến vậy. Đương tiến lại vỗ tay vào thân khế. Đúng là cụ khế. Ông Biên
bảo, cây khế cũng cỡ hơn trăm tuổi.
Hai vị khách tiếp tục bước trên thảm lá khô
mục. Cảm giác thất vọng bay biến, thay vào đó là xúc cảm lâng lâng, thú vị
trong không giam thâm nghiêm cổ thụ, bóng cây thả xuống bầu không khí sự mát
lành.
Còn đây mới là một tuyệt tác. Hai cây thị đứng
sóng đôi, cách nhau vài bước chân, một phần tán đan cài, xoắn quyện. Như thể
hai vợ chồng đang ôm ấp, tựa nương nhau. Ông Biên kể, hai cây này được trồng từ
thời cụ tổ dòng họ Nguyễn. Cây chồng cây vợ. Theo lời dạy tổ tiên họ Nguyễn
làng An Xá, hai cây thị tượng trưng tình yêu son sắt, thủy chung, trường tồn.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, một quả bom rơi trúng ngôi vườn, gần hai cây
thị. May thay, nhiều thứ cây khác gãy gập, thị chỉ gãy ít cành, thân trầy xước.
Rồi qua thời gian vẫn phát triển, trường thọ. Năm đó chiến tranh ác liệt, ông
Biên tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, không biết tin nhà dính bom.
Mấy năm sau được nghỉ phép, ông trở về, điều ông quan tâm nhất là sự an toàn
của vợ con và những cổ thụ. Ông thở phào. Mọi sự vẫn ổn. Chục năm trước, bão đổ
về, cây cối trong làng đổ nhiều, riêng ngôi vườn của ông bình yên. Các cụ đời
trước truyền lại, cây cối yêu đất nên bám rễ sâu vào lòng đất. Đất yêu nên nâng
đỡ cây.
Toàn bộ cổ thụ trong vườn được gìn giữ, lưu
truyền, nhiều “đại gia” tứ xứ ú ụ giàu khuân tiền về, trả giá hòng bứng cây đi.
Nhưng họ không thể thuyết phục được bất cứ ai trong dòng họ. Đến đời ông Biên
cai quản, vườn chỉ có sinh sôi thêm chứ không bị mất đi. Ông vừa mua thêm hơn
một sào đất của hàng xóm, để làm vùng đệm cho vườn, tăng diện tích khu vườn lên
một mẫu hai.
Giữa vườn, cảnh tượng mới thật sự choáng ngợp
khiến Thức và Đương như lạc vào thế giới cổ tích. Trên cây cao, cây thấp là bạt
ngàn chim chóc. Nào vành khuyên, chim sẻ, bạc má, vẹt. Nào cánh cò, cánh vạc
bay la bay lả… Chim nào cũng dễ gần, lích chích nhảy múa, khoe giọng, khoe
lông.
Lúc này bà Biên đi đến nơi. Ông bà đứng giữa
bầy chim. Chúng bay lượn trên cây, trên đầu, như những đứa con quây quần, nô
đùa bên cha mẹ.
- Giờ các anh đã tin có một thế giới cổ tích ở
nơi này chưa?
Đương thưa:
- Nếu chúng cháu cũng bỏ về thì đã chẳng được
thưởng lãm một nơi lạ lùng như thế này. Cháu vẫn nghĩ những nơi bình yên như
thế này tuyệt chủng rồi.
Ông Biên khoát tay:
- Ấy không. Kho tàng cổ tích còn nhiều. Cũng
như lòng tốt, không bao giờ tuyệt chủng được. Nhưng để có vườn, có chim, phải
yêu chúng đã.
- Làm sao hai bác có thể quần tụ chúng về đây,
để sống cảm tưởng như gia đình? Đúng là một chuyện không ngờ!
Ông Biên để Thức và Đương tự do khám phá thêm
những góc mà cả hai chưa tới. Các anh cứ chơi vui vẻ nhé. Nếu ở lại ăn trưa
được, bà nhà tôi sẽ mời hai vị toàn rau vườn nhà. Thức và Đương nhìn nhau. Thức
nói: “Dạ thôi ạ, hai bác đãi vườn nhạc này là được rồi”.
Tính đến nay Thức có gần hai mươi năm làm nghề.
Anh hăm hở đi nhiều nơi. Dấn thân. Suốt những năm qua, anh đã tìm đến chừng ba
mươi vườn cò, vườn chim, khu dự trữ sinh quyển cũng như khu rừng ngập mặn trong
cả nước. Nơi nào cũng có ấn tượng riêng. Có vườn cò ở Z. do ông giáo làng trông
nom. Ông được ví như người cha già, trồng cây để cò vạc trú ngụ. Nhưng một mình
ông không thể ngăn nổi dã tâm của nhiều “cò tặc” cũng như những viên đạn ác độc
của họ. Một nửa số cò vạc trong vườn cỡ gần chục nghìn con bị bắn hạ trong chục
năm. Thức đến tìm hiểu, nghe ông kể mà xót xa. Vài năm sau anh nghe tin ông rao
bán vườn. Tỉnh nhà phải đầu tư một khoản lớn mua lại, rồi nhờ ông trông nom,
trả lương hậu hĩnh. Song sức người già, chỉ một chút lơ là, bọn săn trộm vào
tận vườn tóm cò vạc mang đi bán làm mồi nhậu. Bất kể ngày nào, lưới và súng săn
bao vây khắp nơi.
Rồi vườn Q., do cán bộ thôn và một số người
nhiệt tâm bảo vệ lướt qua trí não anh. Nhưng gã bợm nhậu T. mở quán đặc sản
chim trời, treo giá cò vạc cao nên hút hàng. Khách tấp nập vào ra vì được đáp
ứng. Chim trời cá nước, thứ gì cũng có. Chẳng mấy chốc vườn Q. vắng bóng cò
vạc. Năm đó Thức chính là một khách quen của quán T. vì nó thuận đường đưa anh
lên công tác mấy tỉnh phía Đông Bắc. Món sẻ đồng giòn tan. Món cò hấp sả thơm
nức mũi. Mỗi cú chạm chén, hò dô, cạn là rôm rốp thịt chim trời bị nhai ngấu
nghiến. Khu vực bếp, chế biến của quán, chim cò đủ loại bị nhốt trong lồng,
hoặc trói chân nhiều con thành chùm. Mắt chúng vằn lên nỗi sợ hãi. Có chùm chim
bị vặt sạch lông, rớm máu, đặt vào rổ mà chúng vẫn giãy giụa tìm lối thoát
trong đau đớn bất lực. Thức và đồng nghiệp thản nhiên xé, nhai. Ngày Thức đến
tìm hiểu, các bô lão rơm rớm nước mắt, than: “Sức chúng tôi có hạn. Bọn cò tặc
đã bắt cò vạc trong vườn, bán cho quán T.”. Anh thừ người.
Thức và Đương lượn hai vòng trong khu vườn. Chỗ
nào cũng có tiếng hót. Chíp chu chíp chu. Kíp kịp kíp kịp. Píu píu, píu piu… Những
âm thanh vui nhộn, thanh thản và điềm nhiên. Lúc như một tài tử đầy bản lĩnh.
Lúc như cô bé gái biết làm dáng bằng giọng ca trong trẻo hồn nhiên. Có lúc Thức
cảm thấy có chú vành khuyên chuyền cành, đi theo mình. Đôi cánh nhỏ nhanh thoắt
ẩn thoắt hiện trong màn lá xanh. Đúng là bữa tiệc tiếng hót của loài lông vũ đa
tài.
Ngôi
vườn quá rộng với cảm nghĩ của hai người đàn ông. Cả hai nhủ lòng, để tồn tại
được trước biết bao đổi thay, sự đe dọa của dã tâm, chủ ngôi vườn hẳn phải gắng
gỏi biết mấy.
Lúc cả hai quay trở ra thì vợ chồng ông Biên đã
chuẩn bị xong bữa cơm rau dưa. Trời kịp trưa. Đương và Thức ngồi vào bàn bên
sân vườn, vừa dùng cơm vừa thưởng thức tiếng hót của chim chóc vọng lại từ tán
lá xanh.
- Hai anh thấy ngôi vườn thế nào?
- Đúng là ngoài sự tưởng tượng hai bác ạ. Cứ
như một thế giới cổ tích mà những con chim như là những bông hoa. Là thiên hoa
đấy. Hai bác sống ở đây là tuyệt vời nhất. Cho phép chúng cháu chiều nay được
quay cảnh về ngôi vườn, rồi chụp ảnh, phỏng vấn hai bác nữa. Chúng cháu sẽ giới
thiệu một cách hoành tráng.
Ông Biên khoát tay:
- Không cần đâu. Hai anh hiểu được giá trị của
khu vườn là được. Này nhá. Thiên nhiên rộng lượng và kỳ vĩ hơn chúng ta tưởng. Con
người chúng ta đôi khi không xanh được bằng một tàu lá, hoặc hay hơn một tiếng
chim. Anh nói đúng. Bầy chim như một vườn hoa, vườn nhạc, là ca sĩ bầu trời, là
thiên hoa. Cảm ơn các anh.
Thức hiểu, đó là một triết lý mà ông Biên đang
muốn nói đến sự hữu hạn của con người trước thiên nhiên. Anh thắc mắc vì sao
ông Biên muốn nhà báo về đây, rồi lại không muốn viết bài, phản ánh về vẻ đẹp
của ngôi vườn. Chưa kịp hỏi thì ông Biên đã giải thích:
- Thật ra, tôi đã hối hận vì mình đưa cái tin
lên facebook. Nhưng đã đăng lên rồi tôi không muốn xóa đi. Tôi nghĩ nơi này còn
tồn tại được là vì ít người biết. Có những thứ càng ít người biết càng an toàn.
Vậy nên cảm ơn các anh đã đến và chia sẻ. Các anh thông cảm, không cần viết gì
về nơi này cả. Sau này có thời gian, các anh ghé chơi, thăm vườn nhạc, trò
chuyện cùng vợ chồng tôi là vui rồi.
Lòng Thức chùng xuống. Có lẽ thế thật. Suốt quãng đường về, Thức miên man nghĩ về lời ông Biên. Hẳn ông ấy có cái lý của mình. Có lẽ điều tốt nhất với ngôi vườn nhiều tiếng nhạc ấy, là càng ít người biết càng tốt.