TÂM
qua một số ca dao-tục ngữ-thi phẩm nổi tiếng Việt Nam
Ta thường thấy bên đạo Công Giáo hình Chúa Giêsu có trái tim phía ngoài với hai dòng chữ :“Đối Ngoại Hữu Kỳ Tâm- Đối Nội Vô Tâm Giả”
Để trái tim bên ngoài
Không còn gì bên trong
Vì cho đi tất cả
Còn mình kể như không
Truyện kể năm 1597 bên nước Nhật với lệnh bắt đạo rất gắt gao và nhiều cơ sở truyền đạo cùng ảnh tượng bị phá hủy. Người ta bắt 2 linh mục trẻ tuổi giải về Tokyo với một số hình ảnh nộp cho quan Đại thần. Vị quan thấy có một tấm hình người để trái tim phía ngoài với 2 hàng chữ 2 bên: “Đối Ngoại Hữu Kỳ Tâm- Đối Nội Vô Tâm Giả”. Ông nhặt hình để trên bàn và suy nghĩ đến gần sáng về dòng chữ trên. Từ đó ông kính cẩn để ảnh trên bàn làm việc.
Một hôm có người bạn đến thăm hỏi ông :
-Bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?
Ông trả lời : Về mặt chính trị tôi không phản kháng triều đình. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo tôi lại thích ảnh này, vì nói lên được hành động xả thân cứu giúp đời của người Kitô giáo.
Họ đã đem hết tấm lòng để phục vụ xã hội, còn chính mình hy sinh tất cả lợi ích riêng tư.
Đó mới là chính đạo, không phải tà đạo- Đó chính là thiện tâm không phải tà tâm.
Câu chuyện trên đã phản ảnh đúng nghĩa chữ Tâm.
Vậy
ta hãy tìm hiểu thêm Tâm là gì ?
Tâm
là lòng biết thông cảm với tha nhân.
Tâm
là trái tim dâng lên cảm xúc vui buồn.
Tâm
là lý trí đắn đo trước khi hành động.
Tà tâm là ác
tâm, hắc tâm, thất nhân tâm, vô tâm, tâm thù hận, tâm bất an, tâm đố kị …
Suy tư cùng tâm thức, tâm linh, tâm cảm , tâm trí,
tâm sự, tâm niệm, tâm tư, tâm lý, nội tâm, tâm trạng, tâm tưởng, tâm ý, lương
tâm…
Tâm có định mọi sự mới được yên,
Tâm xao động mọi điều khó phân giải.
ĐƯỢC: được
tài lợi, tâm không xao xuyến
MẤT: bị
thiệt hại, lòng vẫn thản nhiên
KHEN: được
công kênh, tâm vẫn như không
CHÊ: bị
huỷ nhục, lòng không bực tức
VINH: được
ngợi khen, tâm vẫn bình thản
NHỤC: bị
chê bai, lòng không biến đổi
VUI:
được việc vui, tâm không xao động
KHỔ: gặp
khổ đau, lòng vẫn an nhiên.
Vì thế, chữ Tâm rất phong phú trong Thi ca Việt Nam
và văn chương bình dân như ca dao, tục ngữ, câu hát câu hò, câu đối …và lời thơ
của các thi nhân.
Ca dao tục ngữ đã có cả ngàn câu khuyên bảo ta phải biết đem tấm lòng hay lương tâm để xử thế ở đời sao cho trọn đạo làm người với cha mẹ, vợ chồng, con cái, họ hàng, nhân quần xã hội…
*Trên hết là cha mẹ 2 đấng sinh thành công lao khó
nhọc nuôi nấng dưỡng dục ta.
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một
lòng thờ mẹ kính cha,
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
“Mẹ già như chuối chín cây,
Sao
anh dạo bắc, chơi tây chưa về ?”
“Mẹ
già ở chốn lều tranh,
Sớm
thăm tối viếng, mới đành dạ con.”
Con
cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ.
Con có cha là nhà có phúc.
Con không cha như nhà không nóc.
Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh.
Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn.
Đời cha ăn mặn đời con khát nước.
Mồ côi cha ăn cơm với cá- Mồ côi mẹ liếm lá gặm xương.
Cha mẹ ngoảnh đi con dại- Cha mẹ ngoảnh lại thì con khôn.
Một mẹ nuôi được mười con- Mười con không nuôi được mẹ.
*Chữ tâm đức đã ghi
khắc sâu trong phong tục lễ giáo người Việt cả ngàn năm trước
“Người trồng cây hạnh để chơi,
Ta trồng cây hạnh để đời về sau.”
“Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.”
“Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha nhân đức, đời con sang giàu.”
*Bà mẹ VN nuôi con
và lo lắng cho con từ nhỏ đến lớn, theo dõi giúp đỡ con suốt cả đời.Trước khi
con gái đi lấy chồng lời khuyên bảo tâm tư cảm động biết bao :
“Con ơi nhớ lấy lời này,
Học buôn học bán cho tầy người ta,
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười,
Dù
no dù đói cho tươi,
Khoan
ăn bớt ngủ liệu bài lo toan…”
*Hình ảnh con cò rất bình dân, xuất hiện nhiều lần trong ca dao, biểu tượng nhẫn nhục cao quí của phụ nữ VN, ngay cụ Tú Xương cũng dùng hình ảnh con cò để khen ngợi bà Tú vất vả về chồng con : “Quanh năm buôn bán ở ven sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Chẳng ngại thân cò khi quán vắng, Eo xèo mặt nước buổi đò đông.”
*Ta hãy đọc bài ca dao ‘Con Cò’ để luôn nhớ ơn cao dầy của mẹ :
*Vợ chồng nghĩa tào khang, với tấm lòng trung trinh
nhẫn nhục, tương kính như tân :
“Trời
cao biển rộng thênh thênh,
Ở
sao cho trọn nghĩa tình phu thê.”
“Tiền tài nay đổi mai dời,
Nghĩa nhân gìn giữ trọn đời với nhau.”
“Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
“Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười vui vẻ rằng anh giận gì ?”
“Giận chồng ai chớ giân lâu,
Giận vợ chỉ giập bã trầu mà thôi!”
*Và luôn tâm niệm
những điều phải nhớ trong đời sống lứa đôi :
Giàu về bạn, sang về vợ.
Cơm không lành, canh chẳng ngọt.
Sang chớ đổi vợ, giầu chớ đổi bạn.
“Cây khô bị sấm nứt chồi,
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.”
“Đi
đâu cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lung thiếp cam…”
*Ông bà là người sinh ra cha mẹ, ta phải có lòng tôn
kính yêu thương, nhất là săn sóc các ngài lúc tuổi già, vì khi mình còn thơ dại
chính các cụ đã thay cha mẹ lúc bận việc săn sóc mình, nên đừng chán ghét bỏ
bê, khiến tâm hồn các cụ cảm thấy cô đơn buồn tủi :
Trẻ
vui nhà, già vui cháu.
Cháu
bà nội, tội bà ngoại.
Con
nuôi cha, không bằng bà nuôi cháu.
« Con ai là chẳng con cha,
Cháu ai mà chẳng cháu bà cháu ông. »
« Con người có tổ có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn… »
*Anh em cùng cha mẹ,
mang cùng dòng máu, cùng chung vui sẻ buồn qua bao năm tháng, nên phải thương
yêu nâng đỡ nhau với đầy tâm huyết :
“Anh
em như thẻ tay chân,
Rách
lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.”
“Chị
em trên kính dưới nhường,
Là
nhà có phúc mọi đường yên vui.”
“Anh
em thân mật thật hiền,
Chớ
vì đồng tiền làm mất lòng nhau.”
Em
ngã anh nâng, chị bồng em nhỏ.
“Cá
không ăn muối cá ươn
Con
cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.”
*Khi còn nhỏ ta sống trong một tiểu gia đình, nhưng
đến lúc trưởng thành ta phải tiếp xúc với một đại gia đình gồm nhiều thành phần
xã hội tâm tính khác biệt, nhiều hoàn cảnh đổi thay, nên việc xử thế cần phải đắn
đo thận trọng hơn :
Chọn
bạn mà chơi, chọn nơi mà ở.
Trăm
người mười ý.
Nhập
gia tùy tục, nhập sông tùy khúc.
Đất
có lề, quê có thói.
Sống
ở làng, sang ở nước.
Gieo
gió gặp báo.
Bà
con xa không bằng láng giềng gần.
Gần
mực thì đên, không đèn thì sáng.
Ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài.
“Cha
đời cái áo rách vai,
Mất
chúng mất bạn vì mày áo ơi!”
“Đấng
trượng phu đừng thù với oán,
Đấng anh hùng đừng oán mới nên.”
*Còn đây là những câu giành cho người tà tâm và bọn
hắc tâm tà phải suy nghĩ để biết hồi tâm sửa đổi :
Ăn
mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối.
“Nhiễu
điều phủ lấy giá gương,
Người
trong một nước phải thương nhau cùng.”
“Bầu
ơi thương lấy bí cùng,
Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
“Chim
tham ăn sa vào trong lưới,
Cá
tham mồi mắc phải lưỡi câu.”
“Một
người làm quan cả họ được nhờ,
Một người làm bậy cả họ mất nhờ"
Thượng
bất chánh, hạ tắc loạn.
Trâu
cày không có, trâu ăn lúa thì đông
2.
Thi phẩm
Tâm
trong Hòn Vọng Phu
Giữa Nha Trang và Tuy Hòa, khoảng xa lộ 21 và sông
Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi
chồng.
Theo tục truyền trong dân gian thì thuở xưa có một
gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi Khi giặc giã nổi lên ở biên thùy, người
chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người
vợ trẻ và đứa con đang còn bú mớm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế
con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay
không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ
đợi mãi hóa thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là Hòn Vọng Phu.
Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều
loại đá khác nhaụ Theo thời gian, mưa gió sói mòn loại đá mềm, để lại hình dạng
mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển. Người dân ta đa sầu
đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả
tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.
Ðiều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung
thủy của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khỏe, vẫn trước sau một
lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.
Tâm
trong truyện Kiều
Truyện Kiều còn gọi là Đoạn Trường Tân Thanh, một kiệt
tác trong thi ca Việt Nam do đại thi hào Nguyễn Du sáng tác, dựa theo cốt truyện
Kim- Vân- Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa.
Truyện gồm 3254 câu thơ Lục bát, nhân vật chính là
Thúy Kiều, xoay quanh nàng là Thúy Vân, Kim Trọng, Vương Quan, Thúc Sinh, Hồ
Tôn Hiến, Sư Giác Duyên…cùng những nhân vật đã đi sâu vào tập tục đời sống dân
gian thấp thoáng đâu đây : Anh hùng như Từ Hải- Sợ vợ có Thúc Sinh- Ghen tuông
sánh Hoạn Thư- Bỉ ổi giống Tú Bà- Lừa lọc giống Sở Khanh và Mã Giám Sinh…
Truyện Kiều được nhiều tác giả ca tụng như Trần Trọng Kim chú giải chi tiết, Đào Duy Anh soạn riêng cuốn tự điển Kiều, cùng nhiều bài biên khảo công phu của Lê văn Hòe, Ngô Minh Trực, Minh Phiến, Phan Ngọc…Riêng học giả Phạm Quỳnh đã khẳng định :“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn.”
Trong dân gian, người ta truy tìm, bảo tồn di
sản về Kiều, họa tranh, vịnh Kiều, viết nhạc kịch, đối, bói Kiều…Truyện Kiều được
dịch sang nhiều thứ tiếng như một danh tác, trong đó có nhà thơ Pháp Rene
Crayssac đã chuyển dịch qua thơ Pháp.
Nhưng hơi khác biệt, Nguyễn Công Trứ nhà thơ chí nam
nhi thích cuộc sống ‘tang bồng hồ thỉ’ và làm trai ‘Trong lăng miếu trổ tài
lương đống-Ngoài biên thùy rạch mũi can tương’, nên lúc mọi người ca tụng, lại
hạ bút phê bình cuộc đời nàng Kiều trong bài Vịnh Kiều. Phải chăng Uy Viễn tướng
công quá khắt khe với nàng Kiều qua 15 năm lưu lạc gian truân?
Vịnh
Thúy Kiều
Nhưng bài viết không đi sâu về tôn giáo, triết lý và
văn phong, chỉ chú trọng về chữ Tâm hơn.
Truyện Kiều có thể tóm gọn trong 2 chữ nổi bật là
TÀI và TÂM.
Tài đi kèm với sắc chứng minh cho thuyết ‘Tài mệnh tương đố’.
Tâm được diễn tả qua 4 cung đàn trong những thời
gian, hoàn cảnh và đối tượng khác nhau.
Tài sắc Kiều trổi vượt hơn cả ‘Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa‘ và ‘Trời
xanh cũng phải nổi ghen‘:
Làn
thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa
ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh,
Một
hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc
đành đòi một, tài đành họa hai,
Thông
minh vốn sẵn tư trời,
Pha
nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,
Cung
thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương,
Khúc
nhà tay lựa nên xoang,
Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Cuộc đời trôi nổi của nàng Kiều từ khi bán mình chuộc
cha trải qua bao biến đổi vui buồn, tủi nhục, cô đơn, vinh hoa, hạnh phục đủ
mùi…chính là chữ Tâm kéo dài chứng minh cho thuyết ‘Tài mệnh tương đố - Hồng nhan
bạc mệnh- mà cụ Nguyễn Du đã báo trước ngay phần mở đầu thi phẩm:
Trăm
năm trong cõi người ta,
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau,
Trải
qua một cuộc bể dâu,
Những
điều trông thấy mà đau đơn lòng,
Lạ
gì : bỉ sắc tư phong,
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Rồi từ lúc rơi lệ trước nấm mộ hoang lạnh Đạm Tiên,
hình bóng ấy đã nhập vào hồn Kiều :
Lòng
đâu sẵn mối thương tâm,
Thoạt
nghe Kiều đã đầm đầm châu sa,
Đau
đớn thay, phận đàn bà,
Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Trước hết hãy nói về đức Hiếu Tâm của Kiều hy sinh
bán mình chuộc cha:
Duyên
hội ngộ, đức cù lao,
Bên
tình, bên hiếu bên nào nặng hơn ?
Để
lời thệ hải minh sơn,
Làm
con trước phải đền ân sinh thành,
Quyết
tình, nàng mới hạ tình,
Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Rồi sau này khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường cho
hết kiếp tài sắc đoạn trường, được người từ tâm là sư Giác Duyên, sư Tam Hợp và
ngư ông cứu vớt :
Kiều
từ gieo xuống duênh ngân,
Nước
xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi,
Ngư
ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm
lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa,
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương,
Giác Duyên nhận rõ mặt nàng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Cung Đàn Bạc Mệnh do chính Kiều sáng tác cứ bám
theo suốt cuộc đời nàng qua 4 lần dù hoàn cảnh và nhân vật có đổi thay, nhưng vẫn
tâm tư uẩn khúc bên mình :
Đàn cùng Kim Trọng
là chữ Tâm và tình yêu trai gái, dù tình cảm dạt dào vẫn phải gìn vàng giữ ngọc thuở ban đầu :
Trong
như tiếng hạc bay qua,
Đục
như tiếng suối mới sa nửa vời,
Tiếng
khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng
mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn
đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến
người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu,
Khi
tựa gối, khi cúi đầu,
Khi
vò chin khúc, khi chau đôi mày.
Đàn hầu rượu Thúc Sinh & Hoạn Thư là chữ Tâm và
tình cảm phu thê, tuy ghen tuông vẫn ra vẻ con nhà gia giáo quyền thế :
Rằng
: “Hoa nô đủ mọi tài,
Bản
đàn thử dạo một bài chàng nghe.”
Nàng
đà tán hoán, tê mê,
Vâng
lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn
dây như khóc như than,
Khiến
người trên tiệc cũng tan nát lòng,
Cùng
trong một tiếng tơ đồng,
Người
ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Đàn trước Tổng đốc Hồ Tôn Hiến là chữ Tâm và lý lẽ
thường tình, khi đã sa cơ thất thế :
Bắt
nàng thị yến dưới màn,
Dở
say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một
cung gió thảm mưa sầu,
Bốn
dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Đàn tái hồi cùng Kim Trọng là chữ Tâm và đạo nghĩa
tình yêu, giữ cho vẹn tròn trước sau :
Tình
xưa lai láng khôn hàn,
Thong
dông lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
Nàng
rằng:” Vì mấy đường tơ,
Lẩm
người cho đến bây giờ mới thôi !
Ăn
năn thì sự đã rồi,
Nể
lòng người cũ vâng lời một phen.”
Phím
đàn dìu dặt tay tiên,
Khói
trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa,
Khúc
đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh ?
…..
Lọt tai nghe suốt năm canh,
Tiếng nào mà chẳng não nùng xôn xao.
Chàng rằng:” Phổ ấy tay nào ?
Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy ?
Tẻ vui bởi tại lòng này,
Hay là khổ tận, đến ngày cam lại ?”
Đến đây, ta sẽ ngạc
nhiên thấy Kiều từ chối kết hôn với Kim Trọng, vì trong chế độ phong kiến xưa
trai có thể năm thể bảy thiếp là lẽ thường tình. Nhưng nàng lại muốn giữ nét đẹp
cho trọn vẹn đôi bề :
Nàng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai,
Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần,
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc, một sân quế hòe,
Phong lưu phú quí ai bì,
Vườn xuân một cửa, để bia muôn đời.
Kết thúc truyện Kiều người thiện tâm được đền bù : Kim- Kiều tương phùng
Kẻ ác tâm bị trừng phạt: Kiều dưới trướng tướng công Từ Hải ân đền oán trả.
Tố Như tiên sinh gởi tâm tình trong truyện nhắc bảo người đời sống thuận ý trời phải coi trọng chữ Tâm hơn chữ Tài :
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kía đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao,
Có đâu thiên vị bên nào,
Lại cho tài sắc dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần Trời xa,
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Tâm trong Chinh Phụ Ngâm
Tác phẩm Chinh Phụ
Ngâm do Đặng Trần Côn sáng tác bằng Hán văn gồm 476 câu theo thể thơ Trường đoản
cú ( câu dài câu ngắn )
Nữ sĩ Đoàn thị Điểm
dịch sang chữ Nôm dưới thể thơ Song thất lục bát. Bà giỏi thơ văn, có tài, ứng
đối thông minh nhanh nhẹn, sáng tác nhiều thơ văn khiến nhiều người nể phục, gọi
biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ.
Truyện bày tỏ nỗi
cô đơn lẻ loi của người chinh phụ có chồng đang chinh chiến ngoài biên ải xa.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên,
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
Sau khi tiễn đưa chồng
đi chinh chiến, chinh phụ trở về lòng buồn vời vợi, hối tiếc mình không được bằng
ngựa hay thuyền để theo chàng :
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền,
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên,
Nhủ
rồi tay lại trao liền,
Bước
đi một bước lại vin áo chàng.
Nhưng người cô phụ lại mang tâm trạng tưởng chừng
như trái ngược. Vì song song với niềm tâm sự thương nhớ chồng, cùng vất vả một
thân nuôi già dạy trẻ, lại dâng lên trong lòng nàng niềm tự hào có người chồng dũng
tâm, chí khí hiên ngang, coi cái chết nhẹ tưa lông hồng, lo việc nước trước việc
nhà :
Chí
làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao,
Giã
nhà đeo bức chiến bào,
Thét
roi cậu Vị ào ào gió thu.
Từ ngày chàng ra đi nàng trở về cô phòng lạnh lẽo,
tâm sự sầu héo với ánh đèn hiu hắt :
Lòng
thiếp riêng bi thiết mà thôi,
Buồn
rầu nói chẳng nên lời,
Hoa
đèn kia với bóng người khá thương.
Lòng sầu buồn đến nỗi quên cả tô bồi giữ gìn nhan sắc,
yếu tố cần thiết của người phụ nữ :
Hà
như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng
thơ thơ thẩn thẩn như không,
Trâm
cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch
làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Hương
gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương
gượng soi lệ lại chứa chan.
Sắt
cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây
uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người buồn cảnh vật buồn theo, thật đúng như lời cụ
Tiên Điền mô tả trong truyện Kiều : “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”:
Gà
eo óc gáy sương năm trống,
Hoa
phất phơ rũ bóng bên thềm,
Khắc
giờ đằng đẵng như niên,
Mối
sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hoa
giãi nguyệt, nguyệt in từng tấm,
Nguyệt
lồng hoa, hoa thảm từng bông,
Nguyệt
hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước
hoa dưới nguyệt trong lòng xót đau.
Non sông vẫn còn bao trùm lửa khói chiến tranh,
chàng chưa thể trở về xum họp gia đình. Nàng
càng mong nhớ, càng thấy thời gian kéo dài trong cô đơn buồn tủi :
Dạo
hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi
rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài
rèm thước chẳng mách tin,
Trong
rèm thường đã có đèn biết chăng ?
Thuở
lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca,
Nay
quyên đã giục oanh già,
Ý
nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thương thân phận mình bao nhiêu, lại nhớ thương chồng
ngoài chiến địa bấy nhiêu
Chàng
từ khi vào nơi gió cát,
Đêm
trăng này nghỉ mát phương nao,
Xưa
nay chiến địa dường bao,
Nỗi
không muôn dặm xiết bao hãi hùng !
Tưởng
chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba
thước gươm, một cỗ nhung yên,
Xông
pha gió bãi trăng ngàn,
Tên
reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành,
Áng
công danh trăm đường rộn rã,
Những
nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi,
Nỗi
lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp
trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Mộng mơ và thực tế khác nhau xa, thế mà đôi khi ta lại biến giấc mơ thành hiện thực, như người chinh phụ đã thực hiện làm cái bóng theo sát bên chồng.
Đây thật là tấm lòng trung tình, không phải là
mối tình si vô vọng :
Xin
làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng
đi đâu cũng thấy thiếp bên,
Chàng
nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi
bề trung hiếu thiếp xin vẹn toàn.
Như truyền thống trong đa số các truyện cổ xưa đều
có hậu : gương vỡ lại lành, đoàn viên xum họp, lương duyên tái hợp, lập công hiển
hách, ân đền oán trả, thù hận bỏ qua…mà ta thấy nơi truyện Kiều, Lục Vân Tiên,
Bích Câu Kỳ Ngộ, Nhị Độ Mai…Vì thế những nhân vật chính dù đã qua nhiều khổ ải
éo le, vẫn hy vọng sẽ có một tương lai bừng sáng.
Và Chinh Phụ Ngâm cũng không ra ngoài truyền thống
đó :
Sẽ
rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ
ca dần ren rén đòi liên,
Liên
ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng
chàng sẽ kết mối duyên đến già.
Cho
bõ lúc xa sầu cách nhớ,
Giờ
gần nhau vui thuở thanh bình,
Ngâm
nga mong gởi chữ tình,
Dường
này âu hẳn tài lành trượng phu.
Tâm
trong Cung Oán Ngâm Khúc.
Truyện Cung Oán Ngâm Khúc do Ôn Như Hầu Nguyễn Gia
Thiều sáng tác gồm 356 câu thơ Song thất lục bát với nhiều điển tích làm tăng
thêm ý nghĩa và phong phú từng dòng thơ.
Đây là một áng văn độc thoại nội tâm bày tỏ tâm trạng
nỗi đau đớn của người cung phi sau khi được vua ưu ái, rồi lại chán chê ruồng bỏ
nơi cung cấm cô đơn lạnh lẽo.
Ôn Như Hầu sống vào thời quan lại nhiễu nhương, vua
chúa dâm loạn trác táng, ông đã đem hình ảnh người cung phi đại diện cho nữ giới
bị dùng như một đồ chơi để thỏa mãn thú tính bọn người trụy lạc, nhất là các
quân vương. Đồng thời cũng nói lên triết lý : Hồng nhan bạc mệnh- Thuyết Định mệnh
và cuộc đời phù du ảo mộng của con người.
Thuyết Hồng nhan bạc mệnh xuất hiện ngay phần mở đầu
với những câu thơ buồn ảm đạm :
Trải
vếch quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng,
Oán
chi những khách tiêu phong,
Mà
sui mệnh bạc nằm trong má đào.
Một sắc đẹp chim sa cá lặn, nghiêng nước đổ thành
khiến những mỹ nhân nổi tiếng hay chị Hằng Nga cũng phải ngỡ ngàng :
Chìm
đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng
lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Hương
trời đắm nguyết say hoa,
Tây
Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Tài sắc ấy làm mê mệt lòng người, lôi cuốn biết bao
nam nhi tài tử mong được cận kề :
Tái
sắc đã vang lừng trong nước,
Bướm
ong càng xao xác ngoài hiên,
Tai
nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh
Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.
Sắc đẹp được lòng quân vương cùng say mê trong cảnh
ái ân suốt canh trường :
Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,
Lòng
quân vương chi chút trên tay,
Má
hồng không thuốc mà say,
Nước
kia muốn đổ, thành này muốn long.
Dưới trướng
quân vương có hàng trăm, hàng ngàn người đẹp, như món ăn cần thay đổi cho hợp
khẩu vị, nên nhan sắc dẫu chưa tàn phai cũng bị dã tâm ruồng bỏ không thương tiếc
:
Ai
ngờ bỗng một năm một nhạt,
Nguồn
cơn kia chẳng tát mà vơi,
Suy
di đâu biết cơ trời,
Bỗng
không mà hóa ra người vị vọng.
Hình ảnh người cung phi vịn tường bước lần trong
bóng đêm cô phòng lạnh buốt thật tủi phận thương tâm :
Đêm
năm canh lần nương vách quế,
Cái
buồn này ai dễ giết nhau,
Giết
nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết
nhau bằng cái ưu sầu độc chưa !
Số phận nguồn cơn bạc bẽo, chỉ còn biết than thân
oán trách định mệnh do trời bày đặt:
Trẻ
tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết
đuối người trên cạn mà chơi,
Lò
cừ nung nấu sự đời,
Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Bây giờ mới giật mình thấy cuộc đời chỉ là phù du ảo
mộng :
Thảo
nào khi mới chôn nhau,
Đã
mang tiếng khóc ban đầu mà ra,
Khóc
vì nỗi thiết tha sự thế,
Đã
bày trò bãi bể nương dâu.
Thôi định mệnh sắp đặt trước rồi, lòng buồn cũng
đành chấp nhận duyên số hẩm hiu sống những năm tháng dài còn lại nơi cô phòng :
Đêm
phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt
ba tiêu thánh thót cầm canh,
Bên
tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách
sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ !
Tâm
trong Lục Vân Tiên
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm trường thi viết bằng
chữ Nôm của cụ Nguyễn Đình Chiểu gồm 2082 câu thơ Lục bát bình dân mộc mạc,
nhưng lại chiếm vị trí đặc biệt trong văn học Miền Nam với những nội dung chính
:
Trọng tình nghĩa với cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn
hữu.
Tinh thần nghĩa hiệp : Lục Vân Tiên đánh bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.
Thực hiện khát vọng : Thiện thắng tà- Thiện Tâm thắng Ác Tâm.
Truyện đề cao đạo lý làm người phản ảnh qua nhiều
nhân vật trong mọi tầng lớp xã hội như một kịch bản trường đời trùm phủ với chữ
Tâm :
Vì Hiếu Tâm mà Lục Vân Tiên thương khóc mẹ đến mù đôi mắt.
Thành Tâm với tình nam nữ tương kính nhau như
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Tâm kính giữa tình thày trò và chủ tớ.
Hảo Tâm cùng bạn hữu như Vương Tử Trực và Hớn Minh.
Thiện Tâm qua hành động cứu người
của Tiều phu, Ngư Ông, Chủ quán, Kim Liên.
Ác Tâm như cha con Võ Thể Loan, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm,
bọn cướp Sơn Đài, Lang băm, Thày bói, Thày pháp, Thái sư.
Mở đầu thi phẩm tác giả đã nêu cao chữ Nhân Tâm đạo
nghĩa làm người qua truyện tích Tây Minh của Trương Tải bàn về chữ hiếu và Tâm
đạo :
Trước
đèn xem truyện Tây Minh,
Gẫm
cười hai chữ nhân tình éo le,
Hỡi
ai lẳng lặng mà nghe,
Giữ
răn việc trước lánh dè thân sau,
Trai
thời trung hiếu làm đầu,
Gái
thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Tôn sư trọng đạo, thày đem tâm huyết dạy bảo trò,
trò tôn kính thày luôn ghi ơn và nhớ lời thày giáo huấn :
Vân
Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm
năm dốc giữa keo sơn một lời,
Ra
đi vừa rạng chân trời,
Ngùi
ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Nam nhi chí khí đứng giữa nhân quần xã hội, thấy sự
bất bình không dám can ngăn sao xứng đáng gọi là anh hùng, vì thế Vân Tiên đã ra tay đánh bọn cướp Sơn Đài cứu
Kiều Nguyệt Nga :
Nay
ta đã rõ nguồn cơn,
Nào
ai tính thiệt, so hơn làm gì,
Nhớ
câu kiến ngãi bất vi,
Làm
người thế ấy cũng phi anh hùng.
Sau khi đối thơ tặng vật làm tin, nàng trở về thăm
cha, chàng gặp Hớn Minh, nhưng không đánh giá vẻ bên ngoài vẫn nhận ra là người
bạn tốt sau này :
Vân
Tiên biết kẻ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao,
Chữ
rằng bằng hữu chi giao,
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.
Chữ
hiếu cao dầy, làm con không thể quên ơn sinh thành dưỡng dục, chàng vội vàng về
bái biệt song thân trước khi lên đường ứng thi :
Vân
Tiên quì lạy thưa rằng :
Chẳng
hơn người cổ, cũng bằng người kim,
Dám
xin cha mẹ an tâm,
Cho
con trả nợ thanh khâm cho rồi.
Và tâm thành như Vương Tử Trực tình bạn keo sơn thắm
tiết, tưởng Vân Tiên đã chết ngậm ngùi khóc thương bạn:
Cùng
nhau chịu đặng vuông tròn,
Người
đà sớm thác, ta còn làm chi ?
Trong
đời mấy bậc cố tri,
Mấy
trang đồng đạo, mấy người đồng tâm !
Nhưng thật ra
hai thày trò Vân Tiên bị hại bởi lang
băm, thày bói, thày pháp lừa bịp, rồi lại bị hai tên bạn ác tâm Bùi Kiệm-Trinh
Hâm bắt trói tiểu đồng và xô Vân Tiên xuống sông may có ngư ông cứu vớt, còn tiểu đồng cũng được
người giải thoát :
Vân
Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao
long dìu dắt vào trong bực rày,
May
vừa trời đã sáng ngay,
Thuyền
chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Còn về phần cha con Võ Thể Loan biết Vân Tiên bị mù,
đã thay lòng đổi dạ, khi nghe Vương Tử Trực đậu thủ khoa lại muốn kết nghĩa hai
họ Vương Võ, nhưng bị Trực từ chối mắng chửi thậm tệ là tráo trở gian tâm :
Trực
rằng ngòi viết đĩa nghiên,
Anh
em xưa có thề nguyền cùng nhau,
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Trong khi Nguyệt
Nga tưởng Vân Tiên đã chết, thủ tiết thờ tượng chồng, bác lời cầu hôn của cha
con Thái Sư khiến ông uất hận định đem Nguyệt Nga cống cho giặc Phiên, nhưng
nàng được tì nữ Kim Liên có tấm lòng bao dung thay thế :
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương long phụng rước nàng về Phiên.
Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
Vân Tiên nhờ thuốc
tiên chữa sáng mắt, về nhà thăm cha, tế kính mẹ, thi đậu trạng nguyên rồi cùng
phó tướng Hớn Minh dẹp giặc Ô Qua, xóa bỏ thù cũ, trùng phùng duyên xưa.
Quán rằng : ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm,
Ghét đời Kiết Trụ đa dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm xảy hang,
Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Thương là thương Đức Thánh Nhân,
Khi nơi Tống,Vệ ; lúc Trần lúc Khuông,
Thương thày Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh,
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.
Kết truyện là ca
khúc khải hoàn, loan phụng hòa duyên, ngựa anh đi trước võng nàng theo sau :
Trạng nguyên về đến Đông Thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng,
Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga,
Sui
gia đã xứng sui gia,
Rày
mừng hai họ một nhà thành thân,
Trăm
năm biết mấy tinh thần,
Sinh
con sau nối gót lân đời đời.
*Đôi
dòng tâm bút kết thúc :
Với kiến thức giới hạn, người viết không đi sâu vào
lãnh vực tôn giáo và tiểu sử như nhiều bài biên khảo các học giả đã thực hiện.
Mục đích chỉ muốn tìm hiểu tâm tư người xưa ẩn chứa trong ca dao tục ngữ và một
số thi phẩm nổi tiếng tiêu biểu nêu trên, qua những dòng thơ dẫn chứng tìm được
bài học giá trị trong cuộc sống ở đời. Cũng mong các tác giả thông cảm, nếu người
viết có mượn ý hay trùng hợp ngoài ý muốn.
Xin mượn 4 câu thơ kết thúc Truyện Kiều của cụ Nguyễn
Du để dừng bút bàn về chữ TÂM :
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ Tài,
Lời
quê chắp nhặt dông dài,
Mua
vui cũng được một vài trống canh.
Mong thông cảm những điều thiếu sót ! Tâm thành cảm
tạ !
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG