Chỗ ấy là mùa thu. Cô cảm giác sự hiện diện của mùa thu sớm nhất diễn ra ở đây. Nó thắp lên lá màu, và mỗi cơn gió nhẹ thổi đến thì chúng xào xạc rụng, tơi bời như những cánh chim trúng đạn rớt từ trên cành xuống. Đây là lần đầu tiên cô đi xa như thế, nên khám phá này khiến cô thực sự hài lòng. Lúc mới đến, Ngảo suýt thốt lên trước màu vàng của nó, cảnh mà cô chưa từng nhìn thấy trong đời.
Chỉ biết đây là một chỗ ít người lui đến. Đơn giản nó gần như không thuộc về thế giới của người làng. Nó thuộc về hai mẹ con bà Măng. Ngảo chỉ mang máng thế, cô chưa gặp hai mẹ con bà bao giờ. Hai mẹ con bà vẫn bị khinh miệt vì mang bệnh hủi, không bao giờ được vào làng. Ông nội đã từng nói họ trông rất dữ tợn. Người ta sẽ nghĩ họ là ma nếu bất ngờ gặp chỗ vắng người, từ bụi rậm đi ra, buổi đêm càng khủng khiếp hơn. Như vậy thì càng khổ thân họ, hai mẹ con sẽ bị khinh miệt cho đến chết. Điều này khiến Ngảo dâng lên niềm cảm thông hiu hắt. Một luồng gió cay bất chợt ùa tới và cô cảm giác khó chịu. Cô không sợ lây bệnh, chắc chắn rồi. Cô đã từng đọc trong Kinh thánh, những người hủi bị đồng loại xa lánh làm sao. Bản thân họ không có tội, mà Chúa tạo dựng họ, bắt họ phải gánh chịu đau đớn đó, họ sẽ về nước Thiên đàng nhanh hơn và dễ dàng hơn những người khác. Vì họ gánh vác một phần khổ cực thay Chúa.
Ngảo hơi rùng mình, nhưng đó không phải do nỗi sợ lây bệnh gây ra. Đó là nỗi sợ của một sự dấn thân. Người làng sẽ làm gì khi cô tự ý đến đây, là vùng cấm? Cả cha mẹ cô nữa. Mím chặt môi, cô lấy lại can đảm và tiếp tục lăn bánh. Cô tiến gần đến chỗ mùa thu. Trong đầu cô, hiện ra biết bao thắc mắc. Mẹ con bà Măng không phải là người sao! Họ cũng là những con người, mà đã là con người thì có quyền như nhau. Chỉ Chúa là có quyền tối cao hơn cả, còn con chiên bình đẳng như nhau. Nước Trời thuộc về những ai sống đạo đức theo lề luật Chúa, chứ không phải chỉ dành riêng cho những người may mắn không mắc bệnh. Ác thay, đây lại là một gò đất cao giống như chiếc bát úp khổng lồ. Dốc lên cao vút khiến cô không thể nhúc nhích tiến lên. Chiếc xe ỳ ra. Cô đứng nhìn một cách khó khăn. Xung quanh gò đất là đầm nước um úm. Có những chỗ có thể dùng làm nơi cấy lúa, nhưng vì sợ hãi mà người ta xa lánh những thửa ruộng đó. Cô tự giải thích cho mình thế.
Từ làng đi đến đây phải qua nhiều đoạn đường đồng nhỏ gập ghềnh. Có nghĩa là thế giới nhỏ bé này ở rất xa làng. Người trong làng thường gọi đây là gò hủi. Phải rồi, họ không hề coi hai mẹ con bà là những con người. Không may mắn cho họ, vì mang bệnh mà phải sống xa… Con Người.
Chẳng còn cách nào khác để leo lên. Lẽ nào quay về. Vậy thì mất cả buổi chiều. Sẽ không bỏ về. Một thoáng tự nhủ, Ngảo nghĩ ra cách là nên gọi. Nếu bà Măng nghe thấy tiếng, bà sẽ ra đây đón cô. Và cô cất tiếng. Chẳng phải chờ lâu thì đã có người chạy ra, đó là một con bé, có lẽ chừng tuổi Ngảo, khoác lên mình bộ quần áo xỉn màu rách tươm. Cô cũng nhìn thấy trên đó dấu tích chứng tỏ nó được vá víu nhiều lần. Đứa con gái có một khuôn mặt nhem nhuốc, à không, chắc chắn là một khuôn mặt to tròn, và đẹp nữa. Chỉ có điều nó bị phủ bởi nhiều vết bẩn lấm láp. Còn đầu nó thì xù lên bởi tóc, cũng vàng vọt, chắc bị đốt bởi nắng đồng.
- Mày đến đây làm gì?
Đến chỗ Ngảo, con bé hỏi bằng giọng vênh váo khó tả. Có lẽ nó rất ít được nói chuyện với ai, và chưa chắc được hỏi ai câu hỏi như thế. Đôi mắt nó nhìn vào chiếc xe lăn với sự dò xét.
- Tao đến chơi với bà Măng, cả mày nữa. Tao cũng viếng thăm chỗ mùa thu.
Câu trả lời đó nhận càng nhiều ngạc nhiên của đứa kia. Nó không thôi quan sát Ngảo từ đầu đến chân, và cả sự lạ lùng của chiếc xe lăn mà Ngảo đang ngồi.
- Mùa thu nào, chỗ này làm gì phải chỗ mùa thu? Tao chưa bao giờ thấy ai nói thế, đây là chỗ của mẹ con tao.
Ngảo hơi ngượng, đứa kia không biết chỗ mùa thu là gì. Nó là một danh từ để chỉ cái gò này. Nên Ngảo giải thích theo ý nghĩ của mình. Đứa kia à lên một tiếng:
- Chắc chắn mày được học nên mới ví von được như thế.
Ngảo gật đầu, tao được học, nhưng không khinh người không được học đâu. Cô hỏi tên đứa kia, nó nói nó tên Vẹt. Nghe mà Ngảo suýt bật cười.
- Mày đẩy tao lên được không?
Yêu cầu đó, đối với Vẹt nó phải lưỡng lự hồi lâu. Dường như có sự khó xử trong ánh mắt nó. Có lẽ mẹ nó cấm không cho gặp ai, còn nó thì muốn có bạn.
Không lâu sau mấy cái gãi lên đầu, Vẹt bảo Ngảo đợi. Nó vù chạy lên dốc, như một cơn gió.
Lát sau, đi theo Vẹt là một người đàn bà, là mẹ nó. Bà ta đi hơi gù, dáng chậm chạp và khó nhọc. Ngảo thấy bà ta tỏ ra khó chịu, đối nghịch với sự rạng rỡ của Vẹt. Cô cảm giác mình mang một luồng gió mới thơm đến cho nó, và cơn gió cay đến với bà mẹ. Bà Măng nhìn Ngảo dò xét, một đứa con gái ngồi trên xe lăn khiến bà nghi vấn, và không thể thiếu những câu hỏi.
- Mày đến đây làm gì. Đến đây chắc chắn là không có lợi lộc gì đâu. Bạo gan gớm nhỉ! Người ta không nói cho mày biết là đừng nên đến đây sao?
Ngảo lắc đầu, cô tỏ ra là mình không giống những người khác. Cô chứng tỏ mình là người có trái tim nhân hậu và không hề muốn xa lánh ai. Sau rất nhiều nghi vấn của bà Măng, Ngảo còn đọc được sự hằn học trong đó nữa. Bởi vì bà chưa từng nhận được sự nhẹ nhàng nào từ phía Con Người, nên bà muốn lên giọng với đồng loại của họ là cô. Bà bảo cô nên về đi, nơi đây không phải chỗ cô có thể đến. Thế giới này từ lâu đã bị đóng kín, không hề có sự xâm thực từ bên ngoài. Bà đuổi Ngảo, như sợ rằng cô sẽ là thủ phạm phá vỡ thế giới của mẹ con bà, cướp đi bình yên trên quả đồi thấp hiu quạnh này.
Cô gái ngồi xe lăn nhiệt tình muốn lên đó. Thân thiện giữa tất cả mọi người là điều cô mong muốn, ở cô không có sự khinh miệt nào hết. Nó không tồn tại trong trái tim cô.
- Mày không sợ gì sao hả nhóc?
- Cháu không sợ gì hết, cháu muốn chơi với bà, với Vẹt - Ngảo quả quyết - Cuộc sống này là của chung chúng ta, không ai có quyền cấm đoán ai cả.
Chi tiết này đóng đinh vào tâm thức của người mẹ chất chứa nhiều đau khổ. Bà gần như khóc. Trong chốc lát, sự chai sạn đã bị xua tan, bà trở nên mềm yếu và dịu dàng hơn. Khi bà dịu dàng thì bà đáng yêu như bao người mẹ khác. Thôi được, bà thở phào. Bà hỏi cô muốn gì. Cô nói muốn vào thăm thế giới của bà.
Một mình Vẹt không thể đẩy được chiếc xe lăn, nên rất cần sự giúp sức của bà Măng. Lạ thay, khi bà đụng tay vào thì chiếc xe trở nên nhẹ bẫng và leo dốc một cách quá ư dễ dàng.
Đó là một thế giới xơ xác. Một ngôi nhà lè tè thấp và tơ tướp. Nó không giống chỗ dành cho con người, nhưng nó đã che chở cho hai mẹ con bà Măng trong suốt ngần ấy năm. Phần lớn chỉ là những tấm lá, những tấm áo mưa ghép lại, cột vào trụ là bốn thân cây. Bà Măng có vẻ rất tự hào và sung sướng khi nói đến nhà của mình. Ngảo tin rằng, vào mùa mưa, mẹ con bà sẽ phải vất vả để chống lại sự nghiệt ngã của mưa gió.
Mặt trời đã giấu mặt mình vào lùm cây xa phía chân trời. Đã đến lúc Ngảo phải rời chỗ mùa thu, nơi cô vừa phát hiện ra. Bà Măng vui mừng vì có sự xuất hiện này, ít nhất đã có một cô gái từ phía Con Người đến viếng thăm thế giới của mình. Thế là vui rồi. Bà nhận được ở Ngảo sự ấm áp lạ thường. Một cô gái có sức hấp dẫn và đặc biệt đáng yêu. Bà hứa sẽ tâm sự nhiều hơn với Ngảo vào lần gặp sau, còn giờ đã đến lúc để cô phải về nhà…
Sợ bí mật bị đánh cắp, Ngảo sẽ giấu kín chuyện cô đã đến chỗ mùa thu. Cô cho rằng đó là một bí mật cô khám phá ra. Vì thực chất mẹ con bà không bị hủi, không hề. Đứa con gái của bà còn là một đứa con gái xinh xắn nữa. Cô sẽ từ từ tìm hiểu mọi chuyện, vì sao mẹ con bà lâm vào hoàn cảnh ấy.
***
Cô đã từng mơ đôi chân lành cứng cáp, để dễ dàng đến nhà thờ mỗi khi hồi chuông lễ và kinh chiều vang lên. Nhưng đó chỉ là những giấc mơ không bao giờ thành hình hài, chúng ngự trị trong giấc ngủ cô, xâm lấn trong một thoáng khao khát hiện về lúc ban ngày. Mãi mãi, cô phải chịu đựng cảnh dùng xe lăn đến nhà thờ. Cô khao khát lời Chúa và hằng mong mỏi gần gũi Người. Muốn vậy phải đến nhà thờ. Người ta vẫn gọi nhà thờ là nhà Chúa.
Con đường từ nhà đến nhà thờ không lấy gì là xa, cũng được lát gạch nghiêng rất sạch sẽ. Con đường mà trước kia, chỉ được trải ra những tầng xỉ, đá thô đập nhỏ, không đảm bảo vệ sinh vào những ngày mưa dầm.
Từ nhỏ, Ngảo đã được tắm đẫm trong bầu không khí của đạo Chúa, những lời kinh cầu trong nhà thờ, rất nhiều bài thánh ca và cả những bài Phúc âm nữa. Cũng như ông bà nội, cô vô vàn yêu Chúa và tin tưởng ở Người. Công lao của ông bà nội tạo dựng cho một tâm hồn trinh bạch là rất lớn. Khi bập bẹ biết nói, ngoài những tiếng bà ơi, mẹ ơi, ông ơi, bà nội còn dạy cho cô nói theo lời Chúa.
“A vê Maria, con dâng lời chào Mẹ. A vê Maria, con dâng lời chào Mẹ. Khi tan màu nắng chiều, và khi con nâng hồn lên. Con xin dâng lời ca chào a vê Maria…” Ngảo ngồi dưới tán cây nhãn cổ thụ, một cây nhãn lớn không nhớ được trồng năm nào. Ông nội nói nó đã được trồng từ thời ông cụ, và tận tâm dâng hiến đời nó. Bóng râm, những mùa quả, và hơn hết là cả hình bóng của một cổ thụ trong suốt tuổi thơ của mấy chị em. Sự hiện diện của nó giúp cho tuổi thơ của cô có thêm nhiều hình ảnh đẹp đẽ, cô còn coi đó là một kho tàng. Một kho tàng biết chia sẻ.
Mê mải hát và ngước mắt lên, Đức Mẹ Maria an ủi cho Ngảo. Một tâm hồn gần như trầm cảm. Có những lúc, khi Ngảo cất lên lời hát thì mọi ưu phiền biến mất, cảm tưởng Ngảo cũng không còn tồn tại ở thế gian này. Cô lẫn vào gió và vui chơi với quyền năng của gió. Cô lẫn vào đám mây. Càng ngày cô càng muốn hát thánh ca, hơn hết là những bài về Đức Mẹ, cô cảm thấy mình được ủi an khi ở gần Người.
Đầu óc cô lúc này đang nghĩ đến chỗ mùa thu, bí mật và hình ảnh của mẹ con bà Măng, và miệng cô thì hát. Ngảo định cất bài Cao cung lên thì con San đến. Nó là đứa bạn thân của cô, ở làng bên, một ngôi làng không theo đạo Thiên Chúa. Theo cô, San cũng ở diện “không thể đi” của cái vùng nông thôn này. Bè bạn cô chúng nó đã thi vào đại học, đứa qua đứa trượt. Dù thi đỗ hay không thì chúng cũng trôi dạt ở nhiều phương trời khác nhau, chỉ số ít là ở lại. Cô và San nằm trong số ở lại.
Đầu tiên San hỏi về cha mẹ cô, hỏi hai đứa em và tình hình của chị cả. Ngảo trả lời San hết cả. Chỉ còn hai đứa em đang học bài trong phòng, mọi người đi vắng hết. San rất thích đề tài đi tu mà chị cả đang trên đường thực hiện.
Rất muốn chia sẻ chuyện của mẹ con bà Măng nhưng Ngảo còn lưỡng lự. Sau cùng cô quyết định nói với San là cô đã đến gò bà hủi. Cô nói họ thực sự đáng thương và không hề mắc bệnh gì hết. Bệnh tật chỉ là hậu quả của sự hắt hủi, người bị hắt hủi như thế không có bệnh cũng thành bệnh. Ngảo còn muốn rủ San đi cùng trong lần hẹn tới nữa. Nhưng chẳng may cho cô là người bạn thân của cô đã không đồng tình. San gay gắt phản đối và từ chối lời mời. Nó còn dè bỉu nơi chốn cô gọi là mùa thu, nơi mùa thu ngự vào đó đầu tiên. Đó thực sự là nơi hoang vắng nhưng đẹp.
Suýt nữa thì Ngảo đã to tiếng với San. Cô kìm được lòng mình. Không lợi lộc gì khi để chuyện đó diễn ra. Vậy là chẳng còn hy vọng. Người bạn thân nhất cũng không hiểu Ngảo, không muốn nghe cô giải thích, lại còn tỏ ra khinh ghét người hủi. Nó mang tư tưởng của cộng đồng. Chính cộng đồng đã gieo rắc vào đầu nó chứ nó không có lỗi.
San đi, Ngảo thấy mình bị nỗi cô đơn xâm lấn. Và đầu óc cô trĩu nặng. Cô lại muốn tìm đến Đức Trinh nữ Maria, người sẽ làm lòng cô tĩnh lại. Qua thánh ca, những lời ca tụng Đức Mẹ, cô được gặp Người với một hình ảnh tuyệt đẹp và tinh khiết nhất. “Cung chúc Trinh vương không hề nhiễm tội truyền. Lạy Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ khiết trinh trọn đời. Cung chúc Trinh vương, là kho tích ơn thiêng. Mẹ đã hy sinh…”
Cô học được nhiều thánh ca từ khi vào hội Thiếu nhi thánh thể. Chị quản hội là người sống nội tâm và có đức tin mãnh liệt, siêng năng làm việc theo ý Chúa. Hội Thiếu nhi thánh thể - những con chiên non nớt có sự dẫn dắt của chị là một đặc ân. Tất cả lòng nhiệt thành đọc kinh và sống Phúc âm, hoạt động làm sáng danh Đức Chúa Cha, Nước Thiên đàng. Ngảo có lẽ là một trong những con chiên xuất sắc nhất, tìm thấy tình yêu nơi trái tim Đức Mẹ, và càng ngày càng yêu Đức Mẹ hơn. Người có trái tim bao dung đến tất cả con cái ở nhân gian.
Có Mẹ, Ngảo không còn thấy buồn nản. Tâm hồn cô được cứu rỗi và có chốn nương nhờ. Chỗ mùa thu được cô nhớ đến rất nhiều, cả trong mơ. Người ta đôi lúc còn buồn nản khi ở giữa đồng loại, còn hai con người ở chỗ mùa thu đó, bị khinh miệt, sự cô đơn sẽ nhân lên biết bao nhiêu. Tủi thân cái Vẹt, nó là đứa con gái như cô, sao thiệt thòi thế này?
Mùa thu rơi rớt vào trái tim của Ngảo những tín hiệu xào xạc của nó. Và hình ảnh chỗ mùa thu hiện diện, thậm chí sáng rõ hơn ký ức về nơi cô sinh sống, trong lúc này. Đúng ngày hẹn, Ngảo tìm cơ hội để đến chỗ mùa thu, nơi mẹ con bà Măng nương náu. Nhưng cô vừa ra khỏi đầu làng thì hai đứa em cũng chạy đến nơi, đầu tóc chúng tứa mồ hôi. Cô không biết tại sao chúng lại đi theo cô. Chúng muốn cô cho chúng đi theo với, chúng sẽ đẩy xe và tốc độ nhanh hơn.
- Hai đứa mày biết tao đi đâu mà đòi đi theo?
- Chúng em biết bí mật của chị rồi - Cả hai đồng thanh nói - Chỗ mùa thu đó. Chúng em đã nghe chị nói chuyện với chị San. Chị ấy đã không đi cùng chị, nhưng chúng em thì có.
Khuôn mặt chúng tỏ ra rất quan trọng khiến Ngảo vui, nhưng cô vẫn tỏ ra nghiêm nghị hỏi chúng. “Không sợ lây bệnh chứ?” Cả hai lắc đầu không, chị đi được chúng em cũng đi được. Chỗ này, con bé út rất quyết tâm.
- Đúng là tao không muốn chúng mày dính vào chuyện này. Người làng mà biết thì sẽ bị ăn đòn đấy. Tao bị người ta phát hiện, sẽ không ai đánh tao vì tao ngồi xe lăn. Với lại có lây bệnh, tao chết chả sao, còn chúng mày…
Hai đứa đồng thanh:
- Không sợ gì hết. Chúa đã nói phải giúp đỡ người khác, không khinh rẻ ai là gì. Những gì làm cho kẻ nghèo khó cũng là làm cho Chúa.
Cô không ngờ lời Chúa đã ngấm vào đầu chúng nhanh đến thế, những cái đầu còn non bấy với cuộc đời, và trong sạch hầu như tất cả mọi ý nghĩ. Nhưng chúng không giống con vẹt. Tất cả những ý nghĩ hiện thời xuất phát từ trái tim chúng. Chúng cũng được dạy phải nhân hậu và chúng thực hành được.
Trong nhiều cuộc chơi, nhiều trò mạo hiểm, ba chị em đã từng rất ăn ý và thành công. Cô biết là không thể làm một mình chuyện này nếu gạt chúng ra. Chúng sẽ quyết đi theo cho bằng được.
- Vậy thì cả ba chị em cùng đi. Chúng ta là những người thực hành lời Chúa.
Hai đứa cùng phụ họa: “Chúng ta là những người thực hành lời Chúa”.
Cái Vẹt đã đợi sẵn ở dưới dốc, nên việc đẩy xe lên thật dễ dàng. Sự xuất hiện của ba chị em làm nó vui khôn xiết. Nhưng sự viếng thăm lần đầu của hai người bạn nhỏ khiến bà Măng lo lắng. Sự lo lắng của bà được xóa bằng những khẳng định của Ngảo: Chúng là những đứa trẻ ngoan và có lòng nhân ái. Chúng cháu không sợ bất kỳ cái gì. Hai đứa em khẳng định tiếp lời chị y như thế. Bà Măng cười, một nụ cười của con người đã từng chịu nhiều cay đắng.
Tiếp sau, bà Măng đã khiến cả ba chị em kinh ngạc. Điều này được giấu giếm như một bí mật thực sự. Bà Măng không phải là người đàn bà xấu xí, với dáng đi còng còng khắc khổ. Sự thật là bà rất đẹp, không, là cô rất đẹp. Khi cô ấy đi thẳng người, bỏ chiếc khăn trùm đầu ra và rửa cho khuôn mặt sạch sẽ. Cái Vẹt cũng vậy, nó cũng khiến cả ba chị em sững sờ, khi nó rửa mặt, hết lớp lấm lem, chải đầu tóc mượt. Đến nỗi, đứa em gái phải thốt lên: “Chị ấy xinh hơn chị cả và chị Ngảo”. Hai con người xấu xí bỗng chốc thành hai cô tiên.
Ba chị em há hốc, nuốt từng lời của “cô tiên” lớn - người mẹ nhiều đau khổ. Càng lúc, những lời lẽ đó càng mở ra một bí mật. Mỗi phần bí mật đó đều làm trái tim Ngảo quặn thắt, hai đứa em cũng xót xa. Lần đầu tiên trong đời, chúng hiểu thế nào là sự phức tạp của người lớn. Cái Vẹt, một đứa con gái xinh, chính là sản phẩm của một cơn mưa gió tình tang giữa cô Măng và ông Trùm đạo của làng. Sản phẩm của sự nhẹ dạ cả tin hay thèm khát khó cưỡng. Người kia không mong sự có mặt của nó trên đời, nhưng người mẹ này thì có. Và nó đã được sinh ra trong rất nhiều oan ức, rất nhiều nước mắt. Sự đau khổ và hắt hủi đã thấm vào trí nhớ nó. Thốt nhiên, những ngày tháng bĩ cực này, nó sống trong mặc cảm và thèm khát tình thương. Mẹ dạy cho nó căm thù, dạy cho nó sống không cần bàn tay của cha. Nhưng không, không một điều gì có thể bù đắp những trống vắng trong nó. Cô Măng nhiều khi không thể làm nó vui, và một vài lần, nó trốn khỏi chỗ mùa thu để đến viếng thăm chỗ Con Người. Tất nhiên nó bị xua đuổi, với sự dè bỉu tàn nhẫn nhất.
Cô Măng chính là cốt nhục của bà lão ăn mày tên là bà Còng. Bà Còng chưa bao giờ nói với con về cha nó. Vì thế, cô Măng lớn lên, bí mật ai là cha cô mãi mãi là dấu hỏi lớn. Cô Măng lẽ ra đã có thể có những ước mơ đẹp, vì cô là một người con gái đẹp trong thời thanh xuân của mình. Ông Đoành - Trùm đạo trong làng ngày đó còn trẻ, đã nhen nhóm cho những ước mơ cô, và sau đó làm nó tắt ngấm. Kết quả là cô Măng đã bị đẩy ra ở một thế giới khác, không phải chỗ dành cho Con Người.
Điều gì đã diễn ra? Không phải sự thánh thiện vốn có của đạo Chúa được thực thi ở đây, mà bàn tay quỷ dữ hiện diện và hoành hành. Đúng là có tình yêu của cô Măng dành cho ông Đoành. Còn ông Đoành thì không. Và tất nhiên phải có sự hiến dâng, không gì khác là thân xác. Cô Măng đã hiến dâng thân xác với niềm hy vọng mong manh. Ngay khi cô mang thai thì có một người con gái khác ở nước Nga xa xôi trở về. Người làng đã muốn gán người trai tên Đoành 32 tuổi với cô gái giàu có đó, đây là một đám môn đăng hộ đối, chứ không phải cô gái mò cua bắt ốc nghèo hèn kia. Tài sản của cô Măng còn lại là ký ức cũ mèm của người mẹ, hình ảnh nghèo nàn trong cuộc đời bà, và cả khuôn mặt khắc khổ nữa. Ngoài ra, còn có một ngôi nhà nhỏ bằng vách đất phía cuối làng. Ông Đoành đã bỏ rơi cô Măng và cưới cô gái giàu có kia.
Sự mặc cảm đã phần nào giữ cô Măng mãi ở cái vị thế nghèo hèn này. Một số người biết chuyện ông Đoành làm với cô, nên ngày đó ầm ĩ làng vì chuyện sinh đẻ của cô Măng. Ông Đoành không mảy may một trách nhiệm nào. Một vài bà là bạn của bà Còng mẹ cô ngày trước xui cô nên làm to chuyện này. Nhưng cô đã im lặng. Sau đó cô bị luồng gió khinh miệt của người làng nổi lên và xua đuổi. Ông Đoành cho rằng những dư luận đáng ghét kia là do cô Măng gây ra, ông đã thẳng tay coi đó là người con gái lẳng lơ, vu oan. Người ta đứng về phe ông, vì gia đình ông có thế lực. Kết quả là cô Măng bị cấm không được về làng. Cô an cư ở chỗ mùa thu, một gò đất hoang liêu giữa đồng xa.
Vậy vì sao có chuyện bệnh hủi ở đây. Bạn sẽ không phải đợi lâu. Ngày đó, cô Măng sinh con, khó khăn bủa vây. Bệnh tật thi nhau tấn công cô. Tình yêu con đã giúp cô vượt qua tất cả. Những mụn nhọt trên mặt cô đã biến thành bệnh hủi khi cô về chợ mua đồ cho con. Nhóm người đó tung tin cô bị hủi. Sự nghiệt ngã đó, cộng thêm những khinh miệt trước đó, vô tình đã vẽ vào đời người đàn bà cực khổ này căn bệnh quái ác. Nó càng ngày càng lớn lên. Người ta càng lấy cớ đó để xa lánh con bệnh. Đời hai mẹ con trượt dài trong tăm tối, càng xa Con Người.
***
- Đó là một sự nhẫn tâm rất lớn - Thằng em trai nói.
- Đúng, đó là sự độc ác mới đúng. Sao người ta độc ác thế! - Em gái út nói thêm.
Ba chị em ngồi thảo luận vấn đề này. Đó không còn là chuyện riêng của mẹ con cô Măng nữa. Với ba chị em, cái Vẹt đã là một người bạn. Nó không hề hung dữ như người ta nói. Cô Măng cũng vậy, cô hoàn toàn hiền lành, và không hề có một thoáng hiển hiện của cái ác. Cay nghiệt hơn, mẹ con cô mãi mãi phải mang cái vỏ bệnh tật để gồng mình sống. Sẽ phải giúp họ như thế nào là vấn đề ba chị em đưa ra bàn bạc. Tuy rằng, hai đứa em của Ngảo còn quá nhỏ, nhưng ý nghĩ của chúng thì không nhỏ chút nào.
- Chị sẽ giúp mẹ con chị Vẹt chứ? - Cô em hỏi.
- Sẽ giúp, ba chị em chúng ta sẽ giúp - Ngảo nói - Nhưng chị chưa biết bắt đầu từ đâu.
Hai đứa em đồng thanh: Sẽ nói với ông nội, ông nội sẽ chỉ cho ba chị em phải làm gì. Chưa biết chừng ông có cách hay. Thế là ba chị em cùng đến gặp ông. Ông thực sự tỏ ra lo lắng, vì đó là một nơi không phải dành cho ba chị em. Đó là gò hủi, rất dễ lây bệnh. Ngảo giải thích là họ không bị bệnh, mà họ chỉ bị đời ngược đãi. Vì người ta ngược đãi mà họ đã tự nhận mình bị hủi. Thực chất không hề có chuyện đó. Nhưng ông không tin. Ông cũng bị đóng đinh ý nghĩ cay nghiệt đó vào trong đầu. Với tất cả mọi vấn đề, ông tỏ ra nhân hậu, nhưng với hai mẹ con cô Măng thì tuyệt nhiên không. Ông cho đó là người đàn bà mất nết, lại còn định đổ oan cho ông Đoành, mà nay đã làm trùm, người đứng đầu trong nhà thờ làng, một con chiên của Chúa. “Các cháu nên từ bỏ ý định đến đó lần thứ hai, sẽ không lợi lộc gì ở đó” - Ông nói. Điều đó làm Ngảo vô cùng thất vọng, ngay cả ông nội là người ngoan đạo cũng không hiểu cô. Ông đã không hiểu cô thì những người khác sẽ từ chối để hiểu. Và chẳng bao giờ có cơ hội kéo mẹ con cô Măng về với cộng đồng.
Cùng với một ý chí, và sự ngây thơ hồn nhiên trong ý nghĩ của hai đứa em có tấm lòng nhân hậu, khiến cho Ngảo dũng cảm nói chuyện này với cha mẹ. Cô nói ba chị em đã đến đó, chỗ mùa thu, chỗ mà cô đã không trốn được hai đứa em. Cô thề với cha mẹ những gì cô nói là sự thật. Cô Măng là người đàn bà đẹp, cô ấy không mắc bệnh gì hết, cô ấy cũng không bị còng. Những lời cô nói bị cha mẹ phủ nhận: “Con mụ đó còng như chính mẹ nó, mới hôm qua người ta còn nhìn thấy dáng còng đó lội sông”.
Dù đã bị cấm một cách tuyệt đối gay gắt, nhưng ba chị em vẫn đến chỗ mùa thu, nơi không phải của Con Người. Chính thức là Ngảo đã trốn cả các em vì sợ liên lụy chúng. Nhưng bằng cách nào đó, không hiểu nổi, chúng vẫn bám theo được cô, và chỉ khi gần đến nơi, chúng mới xuất hiện. “Chị không muốn các em đến đây nữa, chị không muốn các em bị liên lụy.” Hai đứa kia nói: “Chúng em cũng như chị, đều thương chị Vẹt, chị đi được chúng em tại sao không? Sẽ không bao giờ đến đây mà không có cả ba chị em”. Thằng em trai còn dằn mạnh mấy từ cuối. Chúng đã chứng tỏ tâm hồn vĩ đại trước tuổi của chúng. Điều đó làm Ngảo vui, ít nhất còn có hai đồng minh tí hon này.
Giấc mơ cứu giúp hai mẹ con cô Măng chưa thành thì tai họa đã giáng vào ba tâm hồn non nớt. Chuyện ba chị em dám đến gò hủi đã bị người làng phát hiện. Và ngay tức khắc tin này lan nhanh, còn hơn loại bệnh dịch hiểm nghèo. Những đứa trẻ dè bỉu, những ánh mắt người lớn cay nghiệt. Ba chị em cũng bị coi là kẻ nhiễm bệnh hủi. Người ta đòi phải mang chúng đi, ít nhất là sống cho xa dân làng.
Chuyện này đến tai cha xứ, bắt buộc cha phải can thiệp vào khi Người về làm lễ. Cha mẹ Ngảo đồng ý rằng chuyện ba đứa con đến gò hủi là sai, nhưng không đến mức bị đuổi khỏi làng. Người làng không nghĩ thế. Nên đã có những trận to tiếng diễn ra.
Cha xứ đã dấn thân vào chuyện này, và kết luận của cha bắt mọi người phải nghĩ lại. Cha muốn gặp ba chị em. Trong nhà phòng (nơi cha nghỉ ngơi), Ngảo đã muốn nói sự thật, là bí mật có liên quan đến ông trùm, nhưng nhớ lại lời cô Măng, cô không muốn bí mật đó được tháo gỡ, “hãy mặc nó”, Ngảo đã không nói. Cô chỉ khẳng định với cha rằng mẹ con cô Măng không hề bị bệnh, chỉ những vu khống của người dân là mang bệnh thôi. “Trình cha, Chúa đã dạy chúng ta thương yêu tất cả mọi người. Những người hèn kém không có tội…”. Lời của Ngảo khiến cha xứ vui mừng. Và để chuộc lỗi vì quá bận, cha không hề biết có hai mẹ con tội nghiệp đó tồn tại trên đất này. Họ bị bưng bít trong quên lãng nên cha không thể nào biết. Cha muốn đích thân đến đó đưa hai mẹ con về đây.
Trong rất nhiều giấc mơ, thì với Ngảo, giấc mơ mẹ con cô Măng được trở lại với Con Người đã thành sự thực. Họ hoàn toàn khác lạ so với những gì người ta nhìn thấy trước đó. Cô Măng không bị còng, chẳng bị lở loét khắp người, cũng không phải là một mụ già còm nhom xấu xí. Hình ảnh đó chỉ là sự ngụy trang của bóng tối. Thực chất hình ảnh họ đã bị ngược đãi, nên để thích nghi, mẹ con cô phải… hóa trang! Cô Măng bước đi khoan thai với một vóc dáng cân đối và khỏe khoắn. Cả làng như vỡ ra, sự ngạc nhiên đổ về trong mọi ngõ ngách của thôn xóm, len lỏi vào từng góc trái tim con người. Lẽ nào đây là người đàn bà hủi đó. Sự tin tưởng của cha xứ vào ba chị em Ngảo đã rửa đi những hình ảnh xấu cho mẹ con cô Măng. Cha cho thêm một lễ vào chiều chủ nhật. Trong thánh lễ, người kêu gọi nhân dân đóng góp để giúp đỡ cho hai mẹ con cô Măng dựng một mái tranh để ở. Cha muốn cô về sống trong làng và thay mặt Chúa xóa cho cô những tội lỗi trước đó. Cư dân không thể không nghe lời cha, nhưng những lời dè bỉu vẫn chưa hoàn toàn tắt hẳn.
Ngay hôm đó, đã có cuộc gặp gỡ giữa ông Đoành - trùm đạo và cô Măng. Ông tỏ ra hối hận vô cùng, và ông muốn bí mật bù đắp. Chỉ xin đó mãi là bí mật. Cô Măng khóc, hai hàng lệ tứa “Ông hãy ôm lấy bí mật của ông, sẽ không ai phơi nó ra cả. Cũng chẳng cần ông phải bù đắp”.
Đó là tin buồn với Ngảo. Cô Măng quyết định ra đi, không nhận bất kỳ một ân huệ nào từ phía làng, và cả phía cha xứ. Cô muốn ra đi từ lâu, nhưng một điều gì đó khó nói đã níu giữ. Dù sao, những ngày tháng mốc thếch sống xa Con Người, hai mẹ con đã nếm trải đầy đủ cơ cực. Cô những hy vọng người đàn ông đó trả cho cô cái cô cần được nhận, nhưng không, cô không cần gì nữa cả.
Vẹt đến tạm biệt Ngảo để theo mẹ ra đi. Ngảo trao cho nó mẫu ảnh Đức Mẹ mà cô luôn đeo ở cổ. “Hãy giữa lấy để luôn được may mắn.” Ngảo hát cho Vẹt nghe bài thánh ca, bài tung hô Đức Mẹ. Cô muốn người bạn nhỏ của mình sẽ được Đức Mẹ che chở.
Hai người bạn nhỏ cũng có mặt trong cuộc chia tay, chúng thể hiện tình cảm bằng việc chúc Vẹt may mắn. Chỉ Ngảo là u ủ nỗi buồn trên khuôn mặt trong cuộc chia tay này.
- Mẹ và bạn đã quá khổ sở. Bạn đi may mắn và luôn nhớ đến chúng tớ nhé - Ngảo nói.
- Tớ hứa, sẽ nhớ mà. Ngay lúc này cũng nhớ rồi - Vẹt nói.
- Chính tớ đã làm liên lụy đến hai mẹ con. Bình yên của mẹ con bạn đã bị tớ đánh cắp, chỉ vì cái tính muốn khám phá.
- Không - Vẹt lắc đầu - Nếu bạn không đến, sẽ không làm tan được những ký ức yếu mềm mẹ tớ giữ trong mình bấy lâu. Vậy thì chẳng bao giờ tớ được đến gần Con Người. Chính bạn đã cho tớ gần Con Người, Ngảo ạ.
Ngảo thấy đó là những lời thông minh nhất mà người bạn đó từng nói.