MỤC LỤC[1]
Lời giới thiệuThanh tẩy và nguồn cảm hứng hướng thượng tôn giáo trong Thần Khúc
Dante Alighieri đội vương miện thi hào đại kết trong nhà thờ thánh Gioan
Mục đích chủ yếu của Thần Khúc mang tính thực tiễn và đổi mới
Từ vực sâu địa ngục tới thị kiến Ba Ngôi Chí Thánh, các Thánh và Nữ Vương các thánh
Một nhân loại biểu tượng trong cuộc tìm kiếm hòa bình
Ngôi đền về sự khôn ngoan và tình yêu
Chủ nghĩa nhân bản của Dante Alighieri
Nhãn quan chính trị
Thi sĩ của các thần học gia, thần học gia của các thi sĩ
Bậc nhiệm huấn trong đền thánh nghệ thuật
Bản chất của thi ca
Nghệ thuật sư phạm, cảm hứng và nhịp điệu
Hình thức tuyệt đẹp và tư tưởng thâm thúy của Thần Khúc
Tương quan giữa thơ ca và thần học
Cầu nguyện và thi ca
Dante Alighieri: mẫu gương vun trồng thi ca tâm linh
Vẻ đẹp: nữ tì của chân lý và sự thiện
Hãy tôn kính thi hào tuyệt đỉnh
Kết luận
Lời giới thiệu
1. Năm nay thật xứng đáng được
dành để mừng bách chu niên Dante Alighieri[2] (Đantê Alighiêri), tác giả
của ca khúc tuyệt đỉnh. Vâng, đã bảy thế kỷ trôi qua kể từ khi thi hào ấy chào
đời ở Phirenxê[3], một
thành phố trù phú từng nảy sinh bao thiên tài lẫy lừng và thông thái khác.
2. Nhân dịp này, khắp nước
Ý đã tổ chức vô số cuộc tưởng niệm và tôn vinh vị tuyệt đại thi sĩ của mình,
ngôi sao sáng nhất trên bầu trời văn học nước mình. Đây quả là điều xứng hợp và
chính đáng. Bởi lẽ Dante chính là cha đẻ của tiếng Ý. Chính ông là người đã tạo
nên một hình thái và một diện mạo cho cho nền văn minh Ý, đồng thời cũng chính
là người gìn giữ và bảo vệ nền văn minh ấy
xuyên suốt dòng thời gian.
3. Không
ít dân tộc khác chung nền văn minh Kitô giáo cũng mong muốn tham dự vào biến cố
tưởng niệm trọng đại này. Thế là danh
xưng vốn đã rạng rỡ, Dante Alighieri, sẽ còn mãi rạng rỡ với một niềm vinh quang bất tử. Giờ đây, cái tên ấy như một ngọn đuốc ngự trị ở nơi cao
nhất, chiếu toả những ánh hào quang rực rỡ nhất.
4.Và hiển nhiên đây cũng là dịp
để Giáo hội Công giáo góp mặt trong một cuộc tôn vinh như thế: thực vậy, Giáo hội
xếp ông vào số những người trổi trang về phẩm hạnh và sự khôn ngoan, những người sáng tác thơ
ca đại tài, những người yêu chuộng cái đẹp[4].
5. Diễn đàn thi ca Công giáo có những
gương mặt rạng ngời như thi sĩ Prudenziô, thánh Efrem Sirô, thánh Grêgôriô Nazianzênô,
thánh Ambrôsiô – giám mục thành Milanô, thánh Phaolô thành Nola, thánh Anrê đảo
Creta, Rômanô Mêlôde, Vênanziô Fortunatô, Adamô thành San Vittore, thánh Gioan
Thánh giá, và số đông vô kể những thi sĩ đương đại.
Trong dàn đồng ca hùng hậu
ấy, trổi lên tiếng hạc cầm du dương của Dante
Alighieri với ngón đàn tuyệt diệu. Dante Alighieri đóng vai trò lĩnh xướng bởi
sự vĩ đại trong những chủ đề ông khai phá, bởi độ
tinh khiết của nguồn cảm hứng, và bởi sức
mạnh hồn thơ đã đạt tới mức cực kỳ thanh
tú.
6. Chính vì thế, theo gương vị tiền
nhiệm là Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV, người đã công bố tông thư Trên Đỉnh Hào Quang[5] (In Praeclara Summorum) dịp
kỷ niệm 600 năm ngày mất của Dante Alighieri, chúng tôi cũng muốn bày tỏ lòng
ngưỡng mộ dành cho đại thi hào này. Đây không phải là việc
tôn vinh một con người với ánh hào quang trần thế, là điều vốn chẳng mấy chốc sẽ
tan biến với thời gian, nhưng là một cách nào đó để ghi nhớ mãi mãi. Đây cũng
không phải là việc dựng lên một tượng đài bằng đá hay bằng đồng câm lặng và
lạnh lẽo, nhưng là khơi trào một suối nguồn bất diệt vừa tôn vinh thi hào đồng thời cũng vừa mang lại lợi ích cho tâm hồn
các thế hệ trẻ.
7. Chớ gì các bạn trẻ- khi lần lượt
cắp sách tới trường và trở thành những trò nhỏ của một minh sư như thế- sẽ có
thể minh họa ký ức và tác phẩm của ông, bởi vì hồn thơ ấy thực sự xanh ngát trong
địa hạt văn chương, chớ gì lòng khôn ngoan vừa nhân bản vừa thấm đẫm Kitô giáo
của ông được khẳng định với một sức mạnh mới trong truyền thống văn hóa người
Ý, theo tập tục và thói quen của các bậc tiền nhân tôn kính đúng đắn danh xưng Dante Alighieri như là cha đẻ ngôn ngữ của
họ.
8. Với mục đích ấy,
cùng với những cơ quan học thuật có đầy đủ thẩm quyền, chúng tôi quyết định
thành lập khoa nghiên cứu về Dante Alighieri thuộc Đại Học Công Giáo Thánh Tâm
thành Milanô. Đây là nơi mà vị tiền nhiệm đáng kính của
chúng tôi, Đức Piô XI,
đã dành nhiều ưu ái và lưu tâm. Các
vị Giáo hoàng sau Ngài, và cả chúng tôi nữa, nhất là khi còn thi hành sứ vụ Tổng
giám mục thành Milanô, chúng tôi cũng đã luôn dành sự trân trọng và quí mến. Vì thế, chúng tôi quyết
định ban hành Tự Sắc này để đáp ứng sáng
kiến về việc thành lập Khoa giảng dạy và cổ võ nghiên cứu Dante Alighieri.
9. Chúng tôi rất vui mừng vì việc
thành lập này công khai minh chứng niềm ngưỡng mộ của chúng tôi dành cho thi
hào của Thần Khúc. Chúng tôi muốn thắp
lên niềm tôn kính bất diệt trong giới sinh viên, những con người ưu tú được đào
tạo trong các bộ môn khoa học và nghệ thuật của học viện ấy. Chúng tôi ước mong
có nhiều sinh viên xuất sắc về trí tuệ và đạo đức, để họ tiếp nối truyền bá các
công trình nghiên cứu vốn bắt nguồn từ “mỏ vàng” hết sức phong phú của Dante
Alighieri. Và chớ gì những hoa trái phong phú ấy đều đến được với tất cả những
ai yêu mến đức khôn ngoan, và làm cho nền văn học trong các thế hệ tương lai được
luôn trổ sinh tươi mới.
10. Có thể ai đó sẽ hỏi rằng đời thuở
nào Giáo hội Công giáo, qua ý muốn của Đức Giáo hoàng, lại lưu tâm tổ chức kỉ
niệm và tôn vinh nhà thơ của Phirenxê đến mức như thế? Câu trả lời thật dễ
dàng: bởi vì, thật may mắn, Dante Alighieri là người của chúng ta: là người của
chúng ta, tức là của Đạo Công giáo, bởi vì tất cả đều xoay quanh tình yêu Đức
Kitô; là người của chúng ta vì ông đã tha thiết yêu mến Giáo hội và cất lời ca
tụng vinh quang của Giáo hội, là người của chúng ta vì ông đã thừa nhận và tôn
kính Vị Đại diện Chúa Kitô ở trần gian là Đức Giáo hoàng Roma.
12. Xin phép được nhắc lại: Dante
Alighieri là của chúng ta. Chúng tôi khẳng định điều đó không phải là để tự tôn
mình với lòng tham vọng hãnh tiến đua theo những danh dự ích kỷ. Đúng hơn,
chúng tôi muốn nhắc nhở chính mình về bổn phận phải thừa nhận như thế, phải truy
tìm trong tác phẩm của ông những kho tàng vô giá về tư tưởng và cảm nghiệm Kitô
giáo. Chúng tôi tin tưởng rằng chỉ có ai biết chìm lắng thật sâu trong tâm hồn
sùng đạo của thi sĩ tuyệt đỉnh này mới có thể hiểu được sâu sắc và nếm hưởng được
kho tàng tâm linh tuyệt diệu ẩn giấu trong thi phẩm.
Thanh tẩy và nguồn cảm hứng hướng thượng tôn giáo trong Thần Khúc
13. Thanh tẩy và hướng thượng tôn giáo là điều
đòi hỏi thuộc về bản chất thơ của Dante Alighieri. Thực vậy, mỗi bài thơ của
Dante đều xứng với danh xưng này, bởi lẽ sự thanh tẩy vốn là điều thuộc về nghệ
thuật chân chính và thơ ca chân chính. Nó mời gọi và nâng các tâm hồn hướng lên
những tư tưởng và tình cảm vừa tươi mới vừa mạnh mẽ. Trong tác phẩm Thần Khúc, việc nâng tâm hồn lên, dù ở bất
cứ cấp độ nào, đều bắt nguồn từ cảm thức tôn giáo, đặc biệt là từ nguồn mạch đức
tin Công giáo.
14. Đức tin, vốn “như ngôi sao trên bầu trời lấp lánh”[6]
và là điều đã định hình nên kho tàng quí giá và dấu yêu nhất trong trái tim thi
hào Dante Alighieri“…là niềm vui cao quý/
làm nền tảng cho mọi nhân đức khác”[7].
Ngôi đền thi ca này chính là một ngôi đền đức tin. Từ đáy nền móng sâu thẳm đến
đỉnh cao chót vót, cũng như trong mọi ngóc ngách của ngôi đền này đều được phủ
đầy ánh sáng và năng lượng. Chính vì thế mà tác phẩm được gọi là Thần Khúc:
“Ta ước mơ một ngày kia
Thần Khúc
Một công trình được trời-đất
chung tay
Đẫm mồ hôi, huyết lệ những
tháng ngày
Thanh tẩy hết những đắng
cay độc ác.
Những bất công khiến
thân ta ly biệt
Xa quê hương nhớ da diết
mỏi mòn
Xa vành nôi ru ta giấc
ngủ ngon
Như chiên nhỏ bị sói rừng
truy đuổi.
Ta sẽ về trong tiếng
lòng đổi mới
Ta sẽ về bên Giếng Rửa
Tội xưa
Mái đầu xanh cho nguyệt
quế ươm thơ
Diễm phúc thay ơn gọi
làm thi sĩ” [8].
Dante Alighieri đội vương miện thi hào đại kết trong nhà thờ thánh Gioan
15. Về điểm này, chúng tôi xin phép bày tỏ chân
tình sự mãn nguyện sâu xa về việc chúng tôi đã thực hiện như thể hoàn thành lời
khấn nguyện và ước vọng của Dante. Với sự tham dự của hầu hết các
nghị phụ của Công đồng Đại kết Vatican II, chúng tôi đã gửi tới giếng rửa tội của nhà thờ“Thánh Gioan đẹp”[9],
nơi ông đã được lãnh phép thánh tẩy và trở thành Kitô hữu, với tên gọi Dante
Alighieri, một
vòng nguyệt quế nạm kim cương in chữ nổi thánh danh Đức Kitô bằng vàng để chứng
thực lòng biết ơn lớn lao của thế giới Kitô giáo đối với người đã hát lên rằng “chân lý thăng hoa huyền diệu”[10].
16. Vòng nguyệt quế đó được đội lên đầu Dante
Alighieri chính là niềm vinh dự của đất nước Italia và của cả nhân loại, nó
không bao giờ khô cằn, cũng không bao giờ tàn lụi. Dẫu vậy, vòng nguyệt quế ấy luôn cần được làm mới lại bởi những
nhành lá mới. Bởi lẽ với tài năng vĩ đại và với những kiệt tác của
mình, Dante xứng đáng với danh hiệu
là thi hào của mọi dân tộc, một thi hào có
tầm vóc đại kết, hết
sức đặc sắc, rất xứng đáng được nghiên cứu và được chăm chú lắng nghe.
17. Chắc chắn thi phẩm của Dante Alighieri có
giá trị phổ quát: với sự dàn trải mênh mông, thơ của
ông ôm trọn cả cả trời và đất, cả vĩnh cửu và
thời gian, cả những mầu nhiệm của Thiên Chúa và những sự kiện của con người, cả
những giáo lý thánh thiêng và những quy luật thế tục, cả khoa học khơi nguồn
trong Mạc Khải thánh và khoa học kín múc từ ánh sáng lí trí, cả bao nhiêu kinh
nghiệm mà ông đã trực tiếp kinh qua cộng với những ký ức về lịch sử, những thời
đại mà ông sống, và cả nền văn minh Hilạp Lamã cổ đại. Có thể nói rằng ông là tượng đài vĩ đại nhất đại
diện cho thời Trung Cổ.
18. Thơ
ông là tinh
hoa hội tụ từ sự
thông thái của Phương Đông, Logos-Trí
tuệ của người Hilạp, văn minh của người Lamã, và tổng hợp nguồn tín lý cùng những khoảng lề luật
của Kitô giáo từ công trình của nhiều vị giáo phụ và tiến sĩ Hội thánh. Thực
vậy, Dante Alighieri bước theo Aristốt
về triết học, bước theo Platông trong thiên hướng của linh tượng giới,
bước theo thánh Augustinô trong các khái niệm
về lịch sử, và là học trò trung kiên của
Thánh Tôma Aquinô về thần học, đến nỗi tác phẩm Thần Khúc của
ông gần như là một tấm gương phản chiếu bộ Tổng
luận Thần học của vị thánh Tiến sĩ
Thiên thần này. Nếu điều này đúng cách
chung chung, thì cũng đúng ở hướng ngược lại:
Chính Dante Alighieri là người nhân rộng tầm ảnh hưởng sâu xa của thánh Augustinô, của thánh Bênađô, của trường phái
Victorio, của thánh Bônaventura. Dante
cũng không hề xa lạ với những ảnh hưởng của viện phụ Gioachino ở Fiore. Bởi lẽ các tác phẩm này cưu mang những dòng tư tưởng chỉ
mới bắt đầu ló rạng, chưa thành hình, hãy còn chờ đợi được
khai mở trong tương lai.
Mục đích chủ yếu của Thần Khúc mang tính thực tiễn và đổi mới
19. Mục đích của Thần Khúc trước tiên là thực tiễn, nhằm đổi mới và hoán cải. Thực vậy,
tác phẩm ấy không
chỉ đề xuất những giá trị hết sức thi vị và tốt lành về mặt đạo đức, mà quan trọng hơn là nhằm
biến đổi con người từ tận gốc
rễ. Thần Khúc dẫn đưa con người đi từ cảnh
hỗn loạn đến đức khôn ngoan, từ tình trạng tội lỗi đến sự thánh thiện, từ đau
khổ tới hạnh phúc, từ việc suy xét những cảnh rợn rùng trong Địa Ngục tới chiêm
ngắm các Mối phúc thật trên Thiên Đàng. Và vị minh sư tuyệt vời đã khẳng định
điều đó cách minh nhiên trong thư gửi cho Cangrande: “Mục đích của tất cả và của từng phần có thể nhiều, có mục đích
gần và có mục đích xa. Nhưng bỏ qua việc xem xét tỉ mỉ, có thể nói ngắn gọn rằng,
mục đích của tất cả và của từng phần là kéo con người ra khỏi tình trạng thống
khổ và dẫn đưa họ tới niềm hạnh phúc”.[11]
20. Như thế, Thần Khúc có thể được gọi là một hành trình dẫn đưa tâm trí về cùng Thiên Chúa, từ
bóng tối của cảnh trừng phạt đời đời tới những giọt nước mắt của chuộc tội và thanh
tẩy. Ấy là hành trình mỗi ngày một trở nên sáng
rõ hơn, hành trình của tình yêu càng ngày càng nồng cháy hơn, cho tới khi đạt tới chính ngọn nguồn của ánh sáng, của tình yêu, và của sự ngọt
ngào vĩnh cửu:
“Ta vừa ra khỏi
thiên cầu lớn nhất
Bay bay lên tới
Thiên Quốc huyền siêu:
Đầy ánh sáng
trí tuệ đầy Tình Yêu
Tình chân thiện,
vượt muôn điều hoan hỉ”[12].
21. Thực vậy, những chủ đề của thi phẩm được
trình bày như là những lời giáo huấn và thức tỉnh để giúp chúng ta vươn đến Thiên Chúa. Những điều thuộc thế giới tự nhiên và siêu nhiên,
chân lý và những điều sai lầm, tội lỗi và ân sủng, sự thiện và sự ác, những hành động
của con người và những hậu quả của chúng… tất cả đều được suy xét, được phân định, được đánh
giá trước mặt Thiên Chúa, được nhìn từ viễn tượng vĩnh cửu. Thế là hành trình vươn đến Thiên Chúa, vốn xoáy vào những gì là bí ẩn và cao thượng, bổng trở thành một bản hùng ca về đời sống nội tâm, bản hùng ca về thiên ân, bản
hùng ca về kinh nghiệm thần bí, về sự thánh thiện theo những cách thế đa dạng nhất. Hành
trình ấy trở nên một nền thần học tu đức và thần học của
con tim.
Từ vực sâu địa ngục tới thị kiến Ba Ngôi Chí Thánh, các Thánh và Nữ Vương các thánh
22. Có
vô số nẻo đường nên thánh khác nhau. Khởi từ những
vực thẳm của tội lỗi bị trừng phạt, băng qua những vương quốc thanh bình nơi các linh hồn được
thanh tẩy mọi vết nhơ, hướng đến những đỉnh núi đầy
khó khăn của sự hoàn thiện… tất cả đan dệt nên ánh vinh quang và những mẫu gương thánh thiện của các thánh Phanxicô,
thánh Đa Minh, thánh Phêrô Đa-Miên, thánh Biển Đức Norcia, thánh Rômunđô, thánh
Bênađô. Mọi hành trình đều vươn lên hướng về cùng một
chóp. Với những ai hiểu được ý nghĩa cứu độ, 100 ca khúc ấy lập thành 100 bậc
của một chiếc thang, như chiếc thang mà Giacóp thấy trong giấc mộng, để trèo từ
những nơi đáy cùng lên tới ngọn nguồn
ánh sáng của Ba Ngôi Chí Thánh. Và Đức Trinh Nữ
Maria, Mẹ Thiên Chúa, ở trước thềm bậc thang cao nhất, được thánh Bênađô dâng lời
cầu khẩn như trạng sư cứu giúp cho những kẻ lữ hành mới mẻ
và non nớt đạt được ước nguyện cuối cùng.
23. Với vị
thi sĩ Phirenxê, Đức Maria, “Danh thánh hoa
thiêng mà tôi hằng cầu khấn”[13],
“Sao vinh thắng cả dưới đất trên trời”[14], là người ban phát ơn thiêng, là cửa Thiên Đàng sáng láng, là người nối liền khoảng cách giữa Đấng
Tạo Hoá và các
loài thụ tạo, là Đấng đưa mọi người đến với Đức Kitô và trong mối phúc của Chân Lý Vĩnh Cửu:
“Phàm
nhân này vừa thoát khỏi hang Ma Quỷ
Mắt thấy
tai nghe thực thể mỗi linh hồn
Giờ khấn
xin Mẹ ban xuống đặc ân
Được
chiêm ngưỡng tột cùng Nguồn Bất Tử.
Phần
con đây, chưa bao giờ nóng lòng như thế
Khẩn xin Mẹ, con mong mỏi
hơn cả chính mình
Mẹ đoái thương nhậm lời
chúng con khấn xin
Xóa tan u ám cho mắt
phàm chiêm diễm phúc.
Con lại xin Mẹ, ôi Nữ
Vương lân tuất
Sau
cung chiêm, xin che chở hết mưu ma
Vâng
Mẹ ơi, Thiện Bích[15]
với bao vị sum hòa
Cùng
chắp tay hiệp nguyện lòng vươn tới”[16].
Một nhân loại biểu tượng trong cuộc tìm kiếm hòa bình
24. Nhân vật
chính của Thần Khúc là vị thi sĩ. Dẫu vậy, hình ảnh thi sĩ chính là biểu tượng của cả nhân loại. Ẩn dưới bức màn
phúng dụ, nhân vật ấy dẫn
đưa ta tới chỗ nhận ra những lỗi lầm của mình, bắt đầu lại con đường nhân đức, hướng đến việc được soi
sáng và thanh tẩy, để cuối
cùng được kết hiệp
với Chân Lý tối cao và Sự Thiện tối thượng.
25. Luật Trời được ban cho loài người, để khi
tuân giữ luật, con người đạt tới niềm hạnh phúc đời này cũng như hạnh phúc vĩnh
cửu mai sau mà con người hằng khao khát. Nhờ theo đuổi sự thiện chân thực, con người có thể hướng đến tình yêu chân chính, và lánh xa sự dữ vốn là mầm mống
của tình yêu lệch lạc, là những tham sân si và những sự ác.
26. “Rõ ràng là trong niềm bình an, tức là
trong sự tĩnh lặng an nhiên, con người có được những điều kiện tốt nhất để kiện toàn viên mãn công trình đời mình, một công
trình gần như là thần thiêng, theo đoạn thơ nổi
tiếng này: “Ngài đã dựng nên con người
kém thiên thần một chút” (Tv 8,6)[17].
27. Đây
là sự bình an của từng cá nhân, của các gia đình, của các quốc gia, của các cộng đoàn nhân loại,
bình an nội tâm cũng như bình an bên ngoài, bình an của từng cá nhân cũng như bình an của cả cộng đồng. Trật
tự hòa bình này bị xáo trộn và lung lay bởi vì lòng đạo đức và công lý bị coi
thường. Để tái lập trật tự này cũng như thực hiện ơn cứu độ, thì lương tâm thức
tỉnh về tình trạng sống của nhân loại trên trần gian cần được soi dẫn trong sự
tương tác hài hòa giữa đức tin và lý trí, giữa Thiện Bích và Vinh Dự Lưu[18],
giữa Thập Giá và Đại Bàng, giữa Giáo Hội và Đế Quốc. Đồng thời, cần phải loan
truyền lời cảnh báo phổ quát, u ám nhưng xác thực, về thế kỷ tiếp theo. Cả trời
và đất đều dội lại Tin Mừng hòa bình này.
28. Thần Khúc là
thi phẩm của hòa bình: là bi khúc sầu thảm về bình an đã bị đánh mất vĩnh viễn
trong Địa Ngục; là vọng khúc ngọt ngào về bình an mà con người khao khát hướng tới trong Luyện
Ngục; là ca khúc khải hoàn về bình an của Thiên Đàng, bình an đạt được
cách trọn vẹn và vĩnh viễn.
Ngôi đền về sự khôn ngoan và tình yêu
29. Không chỉ là ca khúc bình an,
Thần Khúc còn là ngôi đền đầy khôn ngoan và tình yêu, một
nguồn khôn ngoan thấm đượm tình yêu và một nguồn tình yêu tròn đầy sự khôn
ngoan. Ai có thể bảo rằng những câu thơ của thi hào thần thánh này không thắp
lên một ngọn lửa tình yêu trong lòng người? Ấy là
một tình yêu làm phát sinh lời mời gọi đầy nồng nhiệt và hữu hiệu, thúc đẩy con
người trở nên tốt hơn trong mọi hoàn cảnh, hướng
tới những mục đích mà Thiên Chúa quan phòng đã ban cho họ.
30. Chính vì thế, đây là thi phẩm hướng đến
một xã hội tốt hơn, nhờ thủ đắc được một nền tự do và giải phóng khỏi ách nô lệ của sự dữ. Thi phẩm này thúc đẩy
tâm hồn tìm kiếm và mến yêu Thiên Chúa trong việc biết trân trọng mọi ân huệ của Ngài, dù là
những ân huệ trải dài trong dòng lịch sử hay trong cuộc
sống. Mọi ân huệ ấy hiển lộ trong nền nhân bản của Dante. Chúng tôi muốn nêu bật một
vài phẩm chất của nền nhân bản ấy.
Chủ nghĩa nhân bản của Dante Alighieri
31. Chủ nghĩa nhân bản của Dante kiện toàn chủ nghĩa nhân bản trong học thuyết của thánh Tôma Aquinô. Đây là một nền nhân bản được đánh dấu bởi đặc tính lạc quan, được đặt trên những nền tảng vững chắc, tức
là ân sủng không phá hủy nhưng giúp hoàn thiện bản tính tự nhiên, và rằng
“con người có phẩm giá cao quý”[19].
Nó đối lập hoàn toàn với một số luận đề mang tính khắc khổ và thần bí theo kiểu
tất cả đều phải hướng tới việc coi khinh thế tục (contemptus mundi) như là dạng thức duy nhất của đời sống trọn
lành.
32. Dante Alighieri không những thừa nhận mà
còn tôn vinh tất cả những giá trị nhân bản từ trí tuệ, đạo đức, tình cảm, đến văn hóa, văn minh.
Điều đáng lưu ý ở đây là những điều thiện hảo này đều được đánh giá và được quý
mến khi ông trầm mình trong Thần Linh, nơi mà việc chiêm ngắm những ơn ích
thiêng liêng có thể làm cho những của cải trần gian trở nên trống rỗng và vô
ích. Thậm chí, nhân tính của ông còn được phác họa ở đó cách tròn đầy hơn và được
nên hoàn thiện trong vòng xoáy của tình yêu Thần Linh. Cũng trong chính trung tâm tràn ngập ánh
sáng các tầng trời, thi sĩ đã cảm thấy bị
choáng ngơp bởi nỗi
niềm lo lắng, bởi việc phải loan đi thông
điệp chân lý và sự thiện, và bởi
tất cả những gì vị thi hào đang chờ đợi từ mảnh đất bất hạnh của chúng ta, “Mỏm đất ấy chứa
bao điều tàn khốc”[20].
33. Ông tin rằng văn minh của thế giới
cổ đại là bước dọn đường để đón
nhận Kitô giáo, theo kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Nền văn minh
ấy cho ông rất nhiều hình ảnh tiên trưng và ẩn dụ, khác hẳn với những gì xảy ra ở cái thời gọi
là Phục Hưng, hay chí ít khác với rất nhiều người thời đó, vốn đánh giá những giá trị của con người tách
lìa khỏi Thiên Chúa; rồi cũng trong thời ấy, chủ nghĩa nhân văn lại hướng tới
những định chế và các tập tục dân ngoại,
để trở nên vô hiệu bởi sai lầm của lạc thuyết
Pêlagiô[21].
Nhãn quan chính trị
34. Tiếp theo, xin phép được phác họa đôi nét
về học thuyết chính trị của Dante Alighieri. Theo đó, hai thứ quyền bính tối thượng, Giáo
Hội và Đế Quốc, đều do Thiên Chúa thiết lập để hướng dẫn nhân loại tới hạnh
phúc. Quyền bính thứ nhất hướng về
niềm hạnh phúc trên Trời, và quyền bính thứ hai hướng đến niềm hạnh phúc trần gian. Hai
đích nhắm ấy được
phân biệt khác nhau, dẫu rằng niềm hạnh phúc sau phụ thuộc vào niềm hạnh phúc
trước. Như thế,
hai thứ quyền bính này- trong phạm vi và lãnh vực chuyên biệt của mình- đều độc
lập với nhau, không loại trừ cũng không lẫn lộn giữa những gì là thiêng thánh
và những gì là phàm tục. Tuy nhiên, theo ông, cần khẳng định rằng trong vấn đề
đức tin và luân lý, Nhà Nước cần phục
quyền Đức Giáo hoàng. Cả hai thứ quyền bính này đều phải nhắm đến
việc phục vụ lợi ích Kitô giáo chung của cả cộng đồng (Res publica Christiana).
35. Không vướng mắc vào gánh nặng phù hoa,
không bận tâm kiếm tìm những gì là thế tục, Giáo hội được tự do hăng say hiến
dâng cho sứ mạng công bố Sự thật và làm cho Sự thật sinh hoa trái:
“Chàng có hay phải trả bao xương máu
Để truyền rao Kinh Thánh khắp thế gian
Và lòng ai biết khiêm nhường đón nhận
Làm Chúa vui thỏa thích đến vô ngần”[22]
Điều nói ở đây không thể được đánh đồng với chủ nghĩa ly
khai triệt để do Marsiliô Padôva đề xướng [theo đó thành thị trần thế phải tách lìa tận gốc rễ
khỏi Giáo hội].
36. Luân
lý là một trong những đặc tính quan trọng nhất trong bổn phận được trao cho nhà
nước: đó là làm cho công lý được hiển trị, diệt trừ
thói tham lam, vốn là nguyên nhân gây ra bất ổn và chiến tranh. Cần phải có một sự lãnh đạo phổ quát.
Theo các thuật ngữ thời trung cổ, thể chế ấy đòi hỏi một thứ quyền bính vượt
trên biên giới quốc gia, để bảo đảm cho một luật lệ duy nhất có hiệu lực gìn giữ
hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc. Trực giác của nhà thơ thần thánh này
không hoàn toàn không tưởng như một số người nghĩ, kể từ khi nó được hiện thể ở
mức độ nhất định trong thời đại chúng ta đây qua Tổ Chức Liên Hợp Quốc, với lợi ích mở rộng hướng tới mọi dân tộc
trên toàn thế giới.
Thi sĩ của các thần học gia, thần học gia của các thi sĩ
37. Chúng tôi không thể không phác họa thêm
đôi nét, dù là vắn gọn, về mối liên hệ tương tác giữa thơ ca và cầu nguyện, giữa
chân lý của tôn giáo và chân lý của thơ ca, để làm sáng tỏ thêm những tương
quan sẵn có trong Thần Khúc và cũng để làm sáng tỏ thêm về bản chất của nghệ
thuật thi ca, cách riêng là của Dante Alighieri. Trong tình cảnh hiện nay, thi
ca tự nó đang rất cần được đổi mới để thêm đơm hoa kết trái, cách riêng trong
thơ ca tôn giáo.
38. Giovanni Virgilio đã chuẩn bị cho lăng mộ Dante
Alighieri một văn bia trong đó tôn vinh: “Thần
học gia Dante Alighieri am tường mọi thuyết cho nên minh triết sưởi ấm cõi lòng
ông”.
39. Điều đó cho thấy, ông đã được tôn kính nhất
là với tước hiệu thần học gia. Tất nhiên, tước hiệu thi hào tuyệt đỉnh chẳng
bao lâu đã chiếm ưu thế qua các thế kỷ tôn vinh ông; và tác phẩm Commedia (Kịch) của ông được gọi là Thần Khúc.
40. Vinh dự của cả hai tước hiệu dành cho ông
như thế là hoàn toàn đúng đắn. Và tất nhiên, thi hào ấy không chỉ được coi là
thần học gia, mà còn hơn thế nữa, được tuyên bố là vị lãnh chúa của ca khúc tuyệt đỉnh,
bởi lẽ ông tỏ ra là nhà thần học với tư tưởng bậc thầy.
41. Nét cao quý, vẻ vĩ đại, những giá trị hết
sức cao cả trong hồn thơ ấy hiển nhiên đạt đến mức như thế, không cần phải chứng
minh chi tiết, với những luận điểm phức tạp. Đỉnh núi thi ca cao ngút vượt thời
gian, trải qua bao nhiêu dòng nước xói mòn như thế, thiết tưởng chẳng cần những
bài diễn văn dài dòng mới nhận ra vẻ vĩ đại của nó: chỉ cần một cái ngước nhìn
lên là đủ.
Bậc nhiệm huấn trong đền thánh nghệ thuật
42. Như Vinh Dự Lưu (Virgilio) đã dẫn đường
cho Dante Alighieri, chính Dante Alighieri
cũng có thể trở thành một
Vinh Dự Lưu khác, một bậc nhiệm huấn dẫn đường cho vô số
người khác bước vào đền thánh nghệ
thuật, nhất là nghệ thuật thi ca. Điều này càng đáng mong ước hơn cho thời đại
của chúng ta, vì sự suy thoái về đời sống tâm linh thường đi đôi với sự tiến bộ
về kinh tế và khoa học kĩ thuật. Nghệ thuật chịu cảnh bần cùng: rất hay bị dẫn
đến những kiểu diễn tả thiếu nền tảng và đơn phương, bị giản lược vào chủ nghĩa
chủ quan duy ngộ đạo của Manicheo, có thể nói như thế, khinh bỉ tự nhiên, nó biến
thái thành thứ lương thực khuyển nho yếm thế, mô tả và tung hô các thói hư tật
xấu. Đối với
những gì liên quan tới thơ ca, nó chỉ thừa nhận hay trên hết chỉ ưa thích thể
thơ trữ tình, bởi vì nó đặt ra những giới hạn và những giản lược không cần thiết
và khô cằn.
Bản chất của thi ca
43. Một số người suy luận từ các nguyên lý triết
học do họ
phát minh và ôm ấp. Họ cho rằng không có sự khác biệt giữa thơ ca và văn xuôi. Có
người phân biệt giữa thơ ca và văn xuôi bằng cách gán cho thơ ca tính chất trữ tình, cảm tính, đòi hỏi một thứ ngôn ngữ tình cảm và trực giác; trong khi đó, họ gán cho văn xuôi đặc tính lý luận, khoa
học, khách quan.
44. Đúng là
thơ ca có thể được nuôi dưỡng từ thế giới nội tâm của chính chủ thể. Tuy nhiên, khi từ bỏ hay coi thường yếu tố trí tuệ, người ta
chẳng bao giờ đạt được điều gì đó vững chắc, sáng sủa, cụ thể. Khi đó, thơ ca trở nên yếu ớt và u ám, chỉ dựa vào câu chữ và cảm xúc,
và sản sinh ra những thứ cảm xúc bong bóng rỗng tuếch chẳng mấy chốc là tắt ngấm.
Ngược
lại, thơ ca không hề bị giảm giá trị vì sự vĩ đại trong cấu trúc của nó. Trong thời cổ đại, các dạng
thức thơ ca được đánh giá cao nhất là thể loại anh hùng ca và bi kịch. Platông
nhấn mạnh thể loại đầu tiên còn Aristốt thì đặt tầm quan trọng ở thể loại sau[23],
bởi lẽ ông cho rằng ở thể loại này ẩn chứa các thể loại nghệ thuật trác tuyệt
nhất.
Nghệ thuật sư phạm, cảm hứng và nhịp điệu
45. Tiêu chuẩn để xác định mức độ thẩm mĩ và độ
hoàn hảo trước tiên đòi hỏi ở nghệ thuật sư phạm, hay khả năng mà tác giả dẫn
đưa các tâm hồn đến nơi mà mình giới thiệu một cách hiệu quả, phù hợp và trọn vẹn.
Ngay cả thi sĩ Orazio[24]
cũng gán cho nghệ thuật quy tắc không thể thiếu này: “Những thành phần cấu tạo nên bài thơ mới chỉ có đẹp, dễ chịu rồi dẫn
đưa tâm hồn độc giả tới bất cứ đâu họ muốn không thôi thì chưa đủ”[25].
46. Bây giờ, tất cả những điều ấy có thể đạt tới
bằng chính ngôn ngữ thi ca, và nhất là với khả năng thần bí, và có lẽ chẳng bao
giờ nó được biết rõ, mà chúng tôi gọi là cảm hứng thần linh. Khả năng này không
phá đổ, cũng không hoàn toàn khinh thường lí trí, nhưng đúng hơn, nó kiến tạo một
cách thức nhận biết khác, một con đường khác để chiếm đoạt thực tại và khám phá
những mối tương quan mà nó không nhìn thấy. Nhưng nghệ thuật cần tới lí trí
trong hoạt động xáo trộn vốn xảy ra trước ánh sáng linh hứng, ánh sáng này đến
soi dẫn, xoa dịu, đơn giản hóa tất cả những gì đã tiếp nhận. Thơ
ca cần lí trí để đi đến thiện toàn, với
sự khéo léo và tài năng, để kết nối các tâm trạng khác nhau, không chỉ gợi lên
những ý tưởng, những hình ảnh, những tình cảm, mà còn tạo nên sự hòa quyện tuyệt
vời giữa các thành phần khác nhau: thực vậy, “Nguyên lý và nguồn suối của lời hay ý đẹp chính là khôn ngoan”[26].
47. Từ đó cần phải kiến tạo nên một dòng chảy,
một sức mạnh cuốn hút, nhờ vào sự sắp xếp
và gắn kết hài hòa giữa các câu chữ, giai điệu và nhịp điệu: “Ai có tài năng, tâm trí thần thánh và miệng
lưỡi hát lên những điều trọng đại, hãy trao cho người ấy danh hiệu thi sĩ”[27].
Hình thức tuyệt đẹp và tư tưởng thâm thúy của Thần Khúc
48. Trong Dante
Alighieri, bút lực như ngọn lửa và nguồn cảm hứng mãnh liệt là những nguyên
tố kích hoạt tác phẩm, kéo hồn thơ lên một tầm cao đáng thán phục, như một vòng tròn ôm trọn cả đại
dương hữu thể:
“Tôi đáp rằng: “Khi
Tình Yêu linh hứng
Những tiếng thầm mách bảo trong tim
Tôi lắng nghe đọc chính tả lắng chìm
Để từng lời chảy trôi đầu ngọn bút”[28].
49. Trong Thần
Khúc có tất cả mọi thể loại văn chương: từ anh hùng ca đến trữ tình, từ huấn
ca đến châm biếm rồi kịch nghệ. Kịch
nghệ vừa là thể loại miêu tả tính cách vừa là
thể loại hành động. Tất cả đều vừa được duy trì với sự đan xen liên tục
những yếu tố đa dạng và hết sức phong phú, vừa giữ được nét hài hòa hợp nhất
sáng ngời trong kiến trúc.
50. Tất cả các cung bậc tình cảm và âm điệu đều
được gọi lên sống động: dịu dàng và khí phách, buồn thảm và vui mừng, không thiếu
những khinh bỉ và cũng đầy những ngưỡng mộ, nào là giận dữ, nào là hoảng hốt,
nào là sợ hãi, nào là yêu thương, nào là chiêm niệm, nào là tôn thờ, nào là nụ
cười hiền dịu và nào là mê ly xuất thần.
51. Với phong cách rất riêng của mình, thi hào
tuyệt đỉnh đã hát lên những thực tại huyền nhiệm và cao cả nhất của cuộc đời,
những mầu nhiệm của Thiên Chúa và những tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại. Nguồn
mạch phát sinh dòng sông hùng vĩ như thể hiện ra một cái gì đó thật vĩ đại và lạ
lùng, mà bấy giờ ông chỉ dùng đến thứ tiếng Ý mới sinh còn non nớt và chưa được
định hình, tức là chưa từng được nhào nặn qua biểu cảm nghệ thuật. Và
chính ngôn ngữ này, “Bánh ra lò [...] [và] mặt trời mới”[29],
trước Dante Alighieri có thể nói: “Tinh tú kia còn chuyển động tươi cười/Huống
chi tôi lẽ nào không biến đổi !”[30],
đã trở thành chất liệu mềm mại để diễn tả - khi thì xứng đáng quý phái, khi thì
mộc mạc chân quê, khi thì mạnh mẽ, khi thì tinh tế, - với những âm sắc và gam
màu hết sức phong phú. Tất
cả đều xoáy vào tâm hồn, bắt cóc tâm trí thi hào, tung ra những cú lao vào những
cơn giận và những cú hích bay bổng yêu thương. Nào là những lời khiển trách và
những lời tán tụng. Nào
là những tiếng gào thét của những kẻ bị trừng phạt trong Địa Ngục và những lời
nguyện cầu của các vị thánh trên Thiên Đàng. Nào những thị kiến, nào những giấc mộng, nào những
điềm báo, nào những quyết định, nào những nét tinh túy của triết học và nào là
những chóp đỉnh của thần học.
Tương quan giữa thơ ca và thần học
52. Chính khi nghiên cứu về thần học
của Dante, ta gặp vấn đề tương quan giữa thơ ca và thần học. Một số nhà phê
bình đã cho rằng Thần Khúc thiếu thi
vị ở những khi và những chỗ nó
chìm vào thần. Ngược lại, một số người lại
nhìn ra rằng chính tại những điểm ấy mà Thần Khúc tỏa sáng và rực rỡ như ánh sáng chính ngọ. Chúng tôi cũng nhìn ra điều này, vì cả những lý do chung chung hoặc đặc thù
53. Ai có thể phủ nhận rằng ý nghĩa tôn giáo, những chân lý đức tin,
những niềm khao khát từ cái hữu hạn hướng tới cái vô cùng, lại không luôn là suối
nguồn làm trào vọt lên thi ca phong phú? Nguồn suối ấy lại không phải là dạng
thức cao cả nhất, tinh tuyền nhất hay sao? Khi với ngôn ngữ của chính mình, thiên về hát hơn là nói, vẽ hơn là suy
luận, điêu khắc hơn là hùng biện, thi ca diễn tả kinh nghiệm thần
bí, những biến chuyển của ân sủng, xuất thần. Khi được nâng lên chóp đỉnh Chân-Thiện-Mỹ, thi ca vượt lên trên mọi suy tưởng, mọi khả năng biểu đạt- “Càng đắm chìm càng cháy lên muôn thuở/Ánh tình yêu
càng thánh khiết nhiệm màu”[31]. Chính khi ấy, thơ ca trở nên một quà tặng vô cùng
quý giá từ sự thiện của Thiên Chúa, một sự phản chiếu vinh quang
Người, trở nên như “Thái Dương tỏa sóng bao la/Thơm lên muôn
má ngân hà phiêu diêu”[32].
Cầu nguyện và thi ca
54. Các nhà chiêm niệm, tức là những
người sống tâm linh sâu sắc, là những ứng
viên tốt nhất có thể được dẫn tới thơ ca, tới Hồn Thơ Vĩ Đại. Trên tất cả, gương mẫu tuyệt vời về thơ ca là những trực giác của các tiên tri và những thánh
vịnh của vua Đavít.
55. Quả vậy, có một mối liên hệ bí mật giữa
các nhà thần bí và các thi sĩ đích thực, và các bậc thầy về nghệ thuật cách
chung, mà thơ ca chính là bà mẹ cưu mang. Ơn thi ca được nhìn trong trật tự tự nhiên tương ứng
với ơn ngôn sứ và thần bí được nhìn trong trật tự
siêu nhiên. Trong tiến trình biểu đạt của
cả hai, có một diễn biến tâm lý tương tự nhau. Các nhà thần bí và các thi sĩ đều tìm nơi ẩn náu trong sâu thẳm tâm hồn, tìm về đỉnh cao của tâm linh, tìm đến trọng tâm của con tim. Trong những nơi ấy, các nhà thần hiệp thì trầm mình
trong sự hiện diện của Thiên Chúa, trong khi các thi sĩ thì linh cảm và trực giác cách nào đó, dù
không thấu hiểu hết được, sự hiện diện ân sủng đến từ “Đấng tác sinh vẻ đẹp”[33].
Dante
Alighieri: mẫu gương vun trồng thi ca tâm linh
56. Nhân dịp này, chúng tôi xin cổ
vũ và vun trồng thơ ca tôn giáo. Dù đó là thơ ca hợp ca, có nhạc kèm theo, vốn ẩn
chứa trong đó những tâm tình với vô vàn cách biểu cảm qua các giọng ca chân
chính. Hay đó là thơ ca trong các buổi cử hành các lễ hội tôn giáo và các sự kiện
quan trọng xảy đến dù vui hay buồn. Hay là thơ ca diễn tả những cuộc trò chuyện
của linh hồn với Thiên Chúa, thì tất cả cũng mở ra dòng suối sự sống và vượt
trên đó nữa.
57. Những người tin vào Đức Kitô,
nhờ ân sủng đức tin, được Ngôi Lời sự sống là Thầy dạy và Nhà sư phạm cư ngụ
trong tâm hồn mình. Cách đặc biệt, họ có thể coi nghệ thuật ngôn từ là của
chính mình, dẫu rằng rất giản dị và khiêm nhường. Như thế, họ vun xới nghệ thuật
này, tựa như một thửa ruộng phong nhiêu, bắt chước mẫu gương Dante Alighieri, vốn
đã trở thành mẫu gương khó có thể vượt qua, ngay cả với những suy luận mà chúng
tôi trình bày.
58. Nếu xem xét sự kết hợp giữa
các yếu tố giáo thuyết và các nguyên lý nghệ thuật thi ca trong tác phẩm của ông,
chúng ta sẽ hiển nhiên nhận thấy sự tương hợp và các giá trị của chúng hòa quyện
vào nhau. Không có yếu tố nào, dù yếu tố này phụ thuộc vào yếu tố kia, lại bị sắp
xếp lộn xộn. Ngược lại, cả hai đều kiến tạo nên một cơ thể sống động và hết sức
hài hòa, chẳng khác nào cơ thể con người, có xương có thịt hài hòa: nếu một yếu
tố bị thiếu hụt, thì yếu tố kia cũng không thể thay thế. Thực vậy, vẻ đẹp hệ tại
ở trong sự tương hợp giữa chúng.
Vẻ đẹp: nữ tì của chân lý và sự thiện
59. Thần học và triết học đều có một
tương quan mật thiết với cái đẹp, bởi vì
cái đẹp trao tặng cho những học thuyết của triết học và thần học tấm áo choàng và những nét tô điểm. Bằng vẻ
êm dịu của ca khúc và những
hình ảnh nghệ thuật gợi hình, chính
cái đẹp mở đường cho nhiều người tiếp cận những giáo huấn quý báu. Những
phân tích cao siêu và những lý luận tinh vi không tới được những người hèn mọn,
trong khi họ lại là số
đông và luôn khao khát ăn bánh
chân lý. Ngược lại, họ cảm nhận được, nếm được, đánh giá được công hiệu của cái đẹp.
Chính qua con đường này mà chân lý tỏa sáng cho họ và nuôi dưỡng họ. Chính tác
giả của ca khúc tuyệt đỉnh đã đảm nhận
và thực hiện công việc này, vì thế, vẻ đẹp trở thành nữ tì của Sự Thiện và của
Chân Lý, và Sự Thiện là chất liệu của vẻ đẹp.
Hãy tôn kính thi hào tuyệt đỉnh
60. Nhưng đã đến lúc khép lại buổi
cử hành tôn vinh Dante Alighieri, xin kết thúc với lời cổ vũ sống động: “Hãy tôn kính thi hào tuyệt đỉnh!”.
61. Chớ gì tất cả mọi người hãy
tôn kính thi hào này, bởi vì ông liên quan tới tất cả: vinh dự mang danh Công
giáo, Ca sĩ của đại kết, và nhà Giáo dục nhân loại. Nhất là những ai gần gũi với
ông về tôn giáo, về tình yêu tổ quốc, về nghiên cứu học hành, hãy tôn kính ông
với nỗ lực chuyên chăm hơn, quyết tâm hơn nữa.
62. Những ai có khả năng cao hơn,
cả ngày đêm hãy có trong tay không chỉ một bản kiệt tác Thần Khúc, mà hãy đào sâu thêm tất cả những gì còn chưa được phát
hiện và còn chưa sáng tỏ.
63. Xin tất cả mọi người hãy đọc
toàn bộ tác phẩm này. Đừng vội vã, cũng đừng chạy đua, nhưng hãy đọc với tâm hồn
thẩm thấu và chăm chú suy tư. Nếu nhiều người thấy không thể thực hiện được, vì
nhiều lý do khác nhau, thì chớ gì không ai để mình không hay biết tới nội dung
của nó, nhất là những phần, những câu thơ trác tuyệt nhất.
Kết luận
64. Cuối cùng chúng tôi xin mời gọi
mọi người thời nay, nhờ gặp gỡ được tâm hồn cao cả của ông, sẽ đào sâu và phát
huy học thuyết và giáo huấn của ông. Giữa lúc ta lạc lối trong rừng hoang, cuộc
kỷ niệm 700 năm sinh nhật của ông rực sáng lên như một ngôi sao chói lọi. Ta
hãy ngước nhìn lên đó để tìm về chính lộ, con đường mà vị thi sĩ đang chỉ cho
chúng ta, con đường dẫn tới đỉnh núi cao hoan lạc:“Sao người còn mãi sầu thương/ Sao không lên thẳng non hương tuyệt vời?”[34].
65. Về phần chúng tôi, trong bầu
khí những cử hành trọng thể hiện nay, để vinh danh vị thi hào này bằng một lưu niệm vững bền, một
sự kính nhớ mãi mãi, thì như đã nói, chúng tôi ban hành Tự Sắc này, thiết lập
Phân khoa Nghiên cứu Dante Alighieri tại Đại học Công Giáo Thánh Tâm ở thành
Milanô. Với thẩm quyền của mình, chúng tôi ủy thác việc thực hiện tất cả những
điều nói trong Tự Sắc cho người anh
em đáng kính của chúng tôi, là Đức Giám mục Carlo Colombo, hiệu tòa Vittoria,
Viện trưởng Viện Giuse Toniolo ở Milanô, và qua Ngài, chúng tôi cũng ủy thác
cho người con yêu dấu là Ezio Franceschini, Giám đốc Đại Học Công Giáo Thánh
Tâm ở Milanô.
66. Với Tông thư này, chúng tôi
xác lập mọi điều được đề cập trong Tự Sắc
luôn có giá trị và vững bền, không gì bị ngăn trở.
Ban
hành tại Roma, lễ thánh Ambrôgiô, ngày 07.12.1965,
năm
thứ ba trong triều đại Giáo Hoàng của chúng tôi.
Tôi
tớ của các tôi tớ,
Giáo
Hoàng Phaolô VI
Phát Diệm, lễ kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam 2021
Lm. Giuse Trần Văn Đỉnh,
Chuyển
ngữ từ bản văn tiếng Ý
[1][Để tiện
theo dõi, người dịch thêm phần mục lục và số thứ tự các đoạn].
[2][Để biết
thêm một số thông tin căn bản, xin tham khảo bài đôi nét về thân thế và sự nghiệp
Dante: https://www.vanthoconggiao.net/2021/11/oi-net-ve-than-va-su-nghiep-ai-thi-hao.html]
[3] [Firenze, Thành phố ở Ý,
tiếng Anh và tiếng Pháp là Florence].
[4] Cfr. Eccli. 44, 1-5.
[5]
Đức Giáo hoàng Biển Đức XV, Thông điệp Trên Đỉnh Hào Quang (In
Praeclara Summorum) sẽ được giới thiệu trên https://www.vanthoconggiao.net/
[6]
Thần Khúc Thiên Đàng. XXIV, 147.
[7] Nt 89-90.
[8]
Thần Khúc Thiên Đàng. XXV, 1-9.
[9]
Thần Khúc Địa Ngục. XIX, 17.
[10]
Thần Khúc Thiên Đàng. XXII, 42.
[11]
Thư. XIII, 15
[12]
Thần Khúc Thiên Đàng. XXX, 40-42.
[13]
Thần Khúc Thiên Đàng. XXIII, 88-89.
[14]
Như trên 93.
[15] [Thiện Bích:
Beatrice-tên người yêu của Đăng Thế An. Thiện Bích cũng là biểu tượng cho ân sủng
hướng dẫn thi sĩ trên hành trình thanh tẩy ở cuối Luyện Ngục và trên các tầng
trời trong phần Thiên Đàng].
[16] Thần Khúc Thiên
Đàng. XXXIII, 22-33.
[17] Chế Độ Quân Chủ, I, IV, 2.
[18] [Thi sĩ Virgilio (70 TCN-19TCN) là người dẫn đường, biểu tượng cho ánh sáng lí trí tự
nhiên, giúp Dante vượt qua Địa Ngục và phần đầu Luyện Ngục. Đó
là một nhà thơ La Mã cổ đại, nổi tiếng với sử
thi Aeneid, là sử thi quốc gia La Mã cổ đại. Mô phỏng
theo Iliad và Odyssey của Homer, Aeneid theo
những người tị nạn Aeneas khi ông phải đấu tranh để hoàn thành sứ
mệnh của mình và tới được nước Ý, nơi hậu duệ của ông Romulus và
Remus đã trở thành ông tổ Roma].
[19] Cfr. Tổng Luận Thần Học, Summa
Theologiae , I, q. 1, a. 8 ad 2; I-II, q. 109, a. 8; I, q.29, a. 3 ad
2.
[20] Thần Khúc Thiên Đàng,
XXII, 151.
[21]
[Học thuyết sai lầm về
vấn đề ơn thánh do ông Pelagio (đầu thế kỷ thứ V), đối thủ của Thánh
Augustino, về vấn đề ơn thánh. Pelagio chối bỏ tội nguyên tổ và các hậu quả của
nó. Cho rằng con người tự do hoàn toàn và có thể đạt tới ơn cứu rỗi. Việc cứu
chuộc của Chúa Kitô có tính cách như gương mẫu mà thôi. Bè rối này đã bị lên án
vào thế kỷ thứ V (xc. DS 222–230. 231. 267. 238–249) và bởi Công đồng
chung Triđentinô (xc. DS 1510–1514. 1521. 1551–1553). Người dịch].
[22] Thần Khúc Thiên Đàng . XXIX, 91-93.
[23] Platông, Leg. II,
658 d et ss.; Aristốt, Poetica , 1461 b 26 et ss.
[24] Thi sĩ Horace, tiếng La tinh
là Quintus
Horatius Flaccus ( 65 tr.CN
– 8 tr. CN) – là nhà thơ của thế kỷ vàng trong văn học Lamã.
[25]
Horatius, Ars poetica, 99-100; cfr. Epist. II,
I, 212-214
[26]
Như trên., Ars poetica, 309.
[27] Như trên., Satir. I,
IV, 43-44.
[28] Thần Khúc Luyện
Ngục. XXIV, 52-54.
[29] Bữa Tiệc. I, 13.
[30] Thần Khúc Thiên Đàng. V, 99.
[31] Thần Khúc Thiên Đàng, Ca khúc V 8-9.
[32] Thần
Khúc Thiên Đàng, Ca khúc I 8-9
[33] Sap. 13,
3; cfr. H. Bremond, Prière et poésie, Paris 1926.
[34]
Thần Khúc Địa Ngục. I, 77-78.