Đình Chẩn biên dịch
Ca Khúc IV: Ngục Lâm Bô
Khúc ca Lâm Bô như một quãng lặng với những tiếng thở dài chứa đựng cả
một chiều sâu bi kịch: số phận thế giới cổ đại, với rất nhiều tâm hồn cao cả, lại
vĩnh viễn không được hưởng nhan Chúa. Đó là thế giới của thầy Vinh Dự Lưu.
Đăng Thế đã phác họa lên số phận thế giới khao khát trong vô vọng. Đó
là nơi ông yêu quý và kế thừa, nhưng đồng thời, ông cũng vượt lên. Những
tâm hồn cao cả có thể đã thấy thực tại siêu việt nhưng không thể đạt tới. Theo
Kitô giáo, tấm lòng cao cả không đủ đưa họ vượt qua giới hạn, vì chỉ có Thiên
Chúa thông ban ân sủng, thì con người mới đạt được mà thôi.
Sau đám hồn vô danh và những người công chính chết chưa được rửa tội
thì nhóm hào hiệp cổ đại thực sự là trung tâm của ca khúc. Vinh Dự Lưu tái
xanh mặt mũi lúc mới bước vào. Câu
thơ lớn xác định chính những điều bị tước đoạt do thiếu hy vọng. Tiếng thở dài não
nuột xuyên suốt cả bài ca.
Theo Kitô giáo, ngục tổ tông là nơi dành cho các thánh tổ phụ chết trước
Công nguyên; nhưng ngay sau khi Chúa chịu chết thì những linh hồn này được giải
thoát. Tiếp theo nơi này dành cho những hài nhi vô tội. Thần học Kitô giáo
không nói đến ngục Tổ Tông dành cho những người khác. Như thế, đây là sáng tạo của Đăng Thế, đã đón nhận vào nơi này những
người ăn ngay ở lành trong thế giới ngoại giáo.
Trường hợp của Vinh Dự Lưu sẽ được xác định trong Luyện Ngục.
Thực vậy, những nhân đức nhân bản và sự khôn ngoan tự nhiên tự nó không
thể nào đạt tới Thiên Chúa. Nơi nào
thiếu vắng ân sủng, dù khả năng nhân loại loại trổi vượt nhất đi chăng nữa (như Vinh Dự Lưu và Aristốt) thì cũng không
thể chạm tới phúc thật vĩnh hằng. Đó là điều căn bản mà ông đã trải nghiệm với
biết bao đau khổ, về thế giới của Thần Khúc. Từ nét sáng tạo và những đau khổ ấy,
trang thơ vĩ đại của Đăng Thế về ngục Tổ Tông đã ra đời.
1
Hồn mê sảng mộng vàng thiêm thiếp
Thoắt sấm ghè rợn óc đinh tai
Ầm ầm dựng đứng cả người
Mở toang mi mắt chơi vơi định hình
2 …***…
Tai nghe nghóng nghi binh quan sát
Tôi cố xem thân xác ở đâu
Chao ôi! Bên vực thảm sầu
Bên bờ chết chóc, thăm thẳm
nguồn cơn vực dặm đường sâu nuốt
Đen kìn kịt, vờn sắc âu lo
Đáy sâu tôi cố thăm dò
Không gì sáng sủa hơn tro đen ngòm.
3
Thầy kíp truyền: Nào xuống nhòm một chút
Xem đời tăm tối kiếp mù trôi
Nói xong Thầy tái mặt hồi
Trò hoảng hốt: “Úi Thầy ôi, Thầy sao vậy…?
Con sợ hãi, biết cậy ai bây giờ ?!
4 …***…
Thầy khà khà: “Con nhầm to nhé
Bởi cảm thương đau khổ con ơi
Kìa đường xa gọi, thôi thôi đi nào!
5 …***…
Tôi bám Thầy xuống ngục hào thứ nhất
Gió rù rù khủng khiếp bên tai
Ôi sầu thương vạn kiếp bi ai
Nghe hổn ha hổn hển u hoài rời rã
Hồn tư bề gái trai vô kể
Dân tứ xứ già trẻ bất bằng
Thầy truyền tôi: «Đường còn xa tít mù giăng
Con ơi, xem chút thôi để còn đăng trình tiếp
Họ chưa có đức tin cũng chưa phạm tội gì hết
Như thầy đây không cực hình mà khao khát khôn vơi
Âm u kiếp kiếp nổi trôi !»
6
Nghe quặn lòng chua xót
Ôi Lâm Bô tang tóc bi ai
Cầm lòng tôi hỏi lại: «Thầy ơi
Không ai thoát được vạn đời sầu ư ?»
7 …***…
Thoắt hiểu ý minh sư liền giảng
Cốc hang này mới đón Đấng Huyền Linh
Đội triều thiên xuống cứu độ chúng sinh
Người tự hủy xuống cõi sình hư nát
Cứu tổ tông thoát đêm đen mỏi mệt
Đưa con cháu lên cực sáng cửu an
Nào Nô-ê, nào A-ben, nào Mô-sê luật ban
Nào thánh vương Đa-vít, với Ab-ram tổ phụ
Nào dân riêng Ích Diên[1]
bao miêu duệ
Những Ra-khen[2]
hương sắc tỏa diễm kiều
Chưa kể dân ngoại rất nhiều !
8 …***…
Chưa qua một
thoáng bao lâu
Từ trong tia mộng rạch bầu trời
hoang
Thầy trò tung bước
nhịp nhàng
Bước đưa xa lắc nhịp đàng quyến di
Thoắt xem thấy ô
lạ kỳ
Đoàn hồn đâu đã khắc ghi danh vàng
Hỡi Thầy nghệ thuật
khôn ngoan
Tiếng ai đâu bỗng reo vang tuyệt vời
Du dương khác hẳn
người đời ?
Rằng: được ơn Trời mưa móc sáng lên
Hương
lan bay tới mọi miền
Trần hồng vang gợi tiếng huyền bay
cao.
Bỗng
đâu hô tiếng tơ chao
“Chúc
vinh kìa đại thi hào muôn năm
Bóng mờ xa, nay hiện thân”.
Tiếng hô réo rắt thả dần êm rơi.
9 …***…
Trông ra tôi thấy đám người thâm trầm
oai vệ
Vẻ không vui cũng chẳng buồn.
Thầy truyền: Phía trước, này con
Đại thi hào Homer oai phong lẫm liệt
Cùng hàng tao nhân mặc khách Đông
Tây
Nào Lưu Canh, nào Hô-Rát[3],
Vi Diệu đây
Nào Đỗ Phủ, nào Khuất Nguyên, Lý Bạch
Thi đàn ý hợp tâm đầu
Thương nhau ngưỡng mộ thơ nhau lạ
lùng!
10 …***…
Từng người ghé mắt chào
Tôn sư cười tươi thắm
Diện kiến các thi hào
Tôi thấy vinh dự lắm
Làm người rốt hết giữa bao anh hùng.
11 …***…
Lặng theo ánh
sáng bập bùng
Lời vàng thánh thót, ngọc chùng
khoan thai.
Thong dong bước tới
lâu đài[4]
Bẩy thành bảo thiết trong ngoài uy nghiêm.
Giang sương xuôi chảy
êm đềm
Vượt lưu thủy bước như thềm suối thơ.
Qua thất môn, chúng
tôi vô
Mỡ màng nguyên thảo bước tơ chạm viền.
Mắt người nơi ấy dịu
hiền
Đường bệ uy quyền thanh thoát sáng trong.
Tiếng vang như tiếng
chuông đồng
Thảnh thơi vào cửa mấy vòng ung dung.
Ôi đề tài rộng vô
cùng
Đoàn người đến lúc hết chung một đường.
Minh sư dẫn lối am tường
Bỏ vườn thanh vắng xuống phường mê cung.
[1] Horace (65-27 t CN) thơ
trào phúng; Lưu Canh-Lucano thơ anh hùng ca.
[2] bảy thành bao bọc: vật lý, siêu hình, đạo đức, chính trị, kinh
tế, toán học, và biện chứng pháp, hoặc là bảy loại hình nghệ thuật tự do: văn phạm, hùng biện, biện chứng, số học,
hình học, thiên văn và nhạc lý
[3] Ích
Diên: Israen, vốn là tên của ông Gia cóp (St 32, 28)
[4] Laban có hai con gái,
Lê-a là chị và Rakhen duyên hơn. Gia cóp yêu Rakhen, đã xin đến phục vụ cho ông
Laban bảy năm và rồi bảy năm tiếp theo, để cưới nàng. Ông Laban đã lừa Gia cóp
ăn nằm với cô chị, với lý do theo tập tục phải gả cô chị trước. Cuối cùng Gia
cóp được lấy cả cô Rakhen làm vợ. (St 29, 18-30).