ĐỜI NGƯỜI VẮN VỎI
TÔI RONG CHƠI GIỮA ĐỜI BIẾT ĐÂU NGUỒN CỘI – Kỳ 2
Ở Đà Lạt có hai nhà Chủng Viện Kontum (vì lúc đó tỉnh Kontum bị chiến tranh), một nhà gọi là Chủng Viện Kontum Anh (CVK anh), học cấp III, các chủng sinh đi học ở trường Adran, còn một nhà nữa gọi là Chủng Viện Kontum Em (CVK em) dành cho chủng sinh cấp II. Nhà này Đức Cha mượn của Dòng Chúa Cứu Thế, ở đồi Tùng Lâm, Đà Lạt. Hai ngôi nhà này bây giờ Nhà Nước sử dụng hết rồi. Thế rồi Đức Cha sai tôi qua ở bên nhà CVK anh để dạy học, làm quản lý, làm linh hướng bởi vì trong nhà có mười một giáo sư nhưng chỉ có hai giáo sư là người Việt mà thôi.
Tôi ở đó cho đến năm 1975 thì đất nước xảy ra biến cố lớn, mọi người đều di tản, Chủng Viện của chúng tôi cũng bị giải tán chạy về Sàigòn.
Tháng 5 năm 1975 lúc tôi đang phục vụ ở Giáo Xứ Thị Nghè thì Đức Cha nhắn với tôi: "Cha về ngay Kontum, đừng có ghé Đà Lạt nữa."
Ngày 19 tháng 5 năm 1975 tôi về tới Kontum, Đức Cha rất vui mừng khi gặp tôi và Ngài bảo: "Cha hãy chờ ở đây và chúng ta sẽ tìm cách gom anh em mình lại."
Năm 1972, Chủng Viện Kontum bị hư hại nặng, nhưng trong 3 năm, từ năm 1972-1975, Đức Cha đã cho tu sửa lại rất đẹp như chúng ta thấy bây giờ, Ngài quyết định sẽ mở Đại Chủng Viện tại Kontum.
Khoảng tháng 8 năm 1975, cha Giuse Bùi Đức Vượng lên làm cha Bề Trên của Chủng Viện, còn tôi thì vừa làm quản lý vừa dạy môn Kinh Thánh, có thêm cha Giuse Hiệu, cha Luca Bùi Thủ, cha Phanxicô Phạm Hữu Thế làm giáo sư, dĩ nhiên là có Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc... Chúng tôi cùng làm việc với nhau và rất yêu thương nhau. Tôi biết cái gì tôi dạy cái đó, và các vị khác có lẽ cũng như thế!
Anh em chủng sinh học mỗi ngày một buổi, thời gian còn lại thì đi làm mướn, làm cỏ lúa, làm cỏ đậu phộng và làm bất cứ cái gì có thể làm được...
Tháng 8 năm 1976 thì Chủng Viện bị đóng cửa hoàn toàn nên không còn một chủng sinh nào, và vì thế mà tôi bắt đầu làm quản lý ở Tòa Giám Mục.
Quản lý thời bấy giờ thì chỉ có nuôi heo, nuôi bò bán nghĩa vụ cho Nhà Nước, rồi làm ruộng, làm rẫy... Những năm đó là những năm vất vả, ăn cơm lúc nào cũng có ghé (độn) mì. Cho nên chúng tôi thấy những ngày, những năm tháng đó đúng là: Những ngày buồn nghĩ lại thấy vui vui. Mình thiếu thốn nhưng mình thấy trong lòng rất vui.
Cứ như thế cho đến năm 1983 thì tôi bị kiệt sức. Tôi đã khóc rất nhiều khi có lệnh phải giải tán Chủng Viện Kontum. Trước đó mấy ngày thì Cha giám đốc Chủng Viện bị bắt, tôi có cảm giác chới với, hụt hẫng như mình bị mất đi cái gì quý giá nhất. Trong nhà có 70 chủng sinh, điều làm cho tôi lo lắng là tiền cho các chủng sinh làm lộ phí đi về cũng không có. Tôi tự hỏi: "Không biết ý Chúa như thế nào" ? Anh em chủng sinh đều ở xa, nào là Buôn Ma Thuột, nào là Nha Trang, rồi Sàigòn...
Nhưng bây giờ nghĩ lại thì tôi thấy rằng Chúa đã sắp xếp hết mọi việc: khi Giáo Dân người này dấm dúi cho ít tiền, người khác cũng dấm dúi cho ít tiền, cuối cùng thì cũng giải quyết được việc cho các anh em chủng sinh về. Một số anh em ra nước ngoài và sau này trong số anh em đó, có những người đã trở thành Linh Mục như: cha Tiến ở Đài Loan, cha Lê Văn Thắng ở Hồng Kông, cha Thạch ở Mỹ, cha Giảng và cha Đích ở Singapor, cha Hải ở Australia, cha Thân ở Canada... Một số anh em khác thì về nhập Địa Phận nơi địa phương của mình. Cuối cùng ở lại Chủng Viện có cha Hiệu và tôi, còn có 8 con bò, nhiều con heo, một chuồng thỏ, mấy bầy gà, ngỗng, vịt nữa, rồi lại có một vườn rau xanh... như vậy mới thấy được là các thầy đã làm việc rất siêng năng và giỏi giang.
Địa Phận Kontum chúng tôi không có nhiều ơn gọi như các Địa Phận khác. Lý do: Kontum chúng tôi là một Địa Phận mà đa số Giáo Dân là người thuộc các sắc tộc thiểu số, không có điều kiện học hành như mọi người. Hiện bây giờ thì Địa Phận Kontum có khoảng gần 250.000 Giáo Dân, Linh Mục chúng tôi thì chỉ trên dưới 70 người. Trong khi Địa Phận Huế trên dưới 70.000 Giáo Dân thôi mà đã có cả trăm Linh Mục. Địa Phận Qui Nhơn cũng thế, khoảng 70.000 Giáo Dân mà cũng có cả trăm Linh Mục.
Chúng tôi có gần 250.000 Giáo Dân, và trong 26 Địa Phận ở Việt Nam thì Giáo Dân người dân tộc là đông nhất, với khoảng 150.000 người, lại có 7 thứ tiếng khác nhau, và vì thế mà công việc của các Linh Mục trong Giáo Phận rất vất vả và gặp nhiều khó khăn. Các Linh Mục phải học các thứ tiếng dân tộc, cũng có Linh Mục học được vài thứ tiếng, thế nên việc thuyên chuyển Linh Mục từ vùng này sang vùng khác cũng là một vấn đề không mấy dễ dàng đối với các Linh Mục trong Địa Phận Kontum.
Một thánh lễ của anh em dân tộc Kon Tum |
Người Kinh trong Địa Phận chúng tôi có không tới 90.000 người, nhưng mà nói đủ thứ giọng: từ giọng Bắc, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... trong Nhà Thờ người Kinh không thôi cũng đã khó đọc kinh chung với nhau rồi, nếu người Bắc xướng kinh thì người Quảng Ngãi chịu thua, mà người Quảng Ngãi xướng kinh thì người Bắc cũng không đọc được, cho nên chúng tôi cũng khá vất vả trong vấn đề mục vụ và luôn cả vấn đề Phụng Vụ.
Một cuốn lịch mà đưa về Quy Nhơn thì chỉ việc bán cho Giáo Dân, còn ở Kontum thì chúng tôi phải dịch ra tiếng Bahnar, rồi tiếng Jarai v.v... Đó là cả một sự cố gắng của Địa Phận Kontum. Kể từ năm 1975, thì chúng tôi bắt đầu cảm thấy thật khó khăn, nhưng dần dà thì Nhà Nước cũng có phần nào đổi mới về các chính sách đối với các tôn giáo. Có một Linh Mục đã chia sẻ: "Thời bao cấp thì làm việc khỏe hơn nhiều, bởi vì không được đi làm Lễ và ban các phép Bí Tích!”
Những năm tôi làm quản lý Tòa Giám Mục, ở đây thiếu thốn về mọi mặt. Thời kỳ còn ở Chủng Viện, từ năm 1975-1976, có 70 chủng sinh nhưng lại không có một hột lúa, hay một viên thuốc nào. Mọi người đều phải đi làm thuê làm mướn. Tôi nhớ có một lần chúng tôi đi làm mướn, người ta trả công cho chúng tôi một bao đậu phộng. Số đậu phộng đó nếu như tôi là người biết tính toán một chút – vì tôi là quản lý Chủng Viện mà – thì tôi sẽ bảo đem phơi khô rồi làm muối đậu phộng để dành trong nhà ăn từ từ cho nó đỡ, bởi vì chúng tôi ăn uống rất là thiếu thốn kham khổ, nào là ăn các thứ rau tập tàng, rồi mắm... còn nước mắm thì pha thêm nước muối vào, nếu nhỏ lên bàn một giọt nước mắm đó, đến chiều nó lại thành một giọt muối.
Không hiểu sao hôm đó tôi thèm ăn đậu phộng luộc quá chừng, cho nên tôi nói với thầy quản lý: "Thôi, mình đừng có nấu cơm, mình luộc hết đậu phộng rồi cho mỗi bàn một thố."
Chiều hôm đó chúng tôi ăn toàn là đậu phộng luộc... Trời ơi! Sao mà nó ngon thật là ngon, ai cũng ăn sạch bách luôn. Nhưng tôi lại không biết một điều là: vì lâu ngày (tôi nhớ đó là tháng 9 năm 1975) không có chất béo trong ruột cho nên tối hôm đó tự nhiên tôi cảm thấy đau bụng hết sức, còn muốn đi tiêu nữa... Tôi chạy ngay xuống nhà tiêu thì... Trời ơi! Trong nhà tiêu đầy người, kẻ thì ở trong, người thì ở ngoài chờ, tôi thấy cha giám đốc cũng đau bụng nữa, người ta chọc tôi: "Mê ăn mà ra cả". Tôi bỗng nảy ra một sáng kiến là: "Sao chúng ta phải chờ như vậy? Chúng ta ra vườn đi... vườn chúng ta rộng mà!"
Mọi người đều ra vườn một cách vui vẻ. Tối đó vì chúng tôi không có được một viên thuốc nào, nên các sơ Phaolô mới nghĩ ra một cách là lấy lá ổi đem nấu chín, lá ổi thì có vị chát, mỗi người uống một ly nó cũng đỡ. Sáng bữa sau dậy đi Lễ tôi thấy mắt của cha Bề Trên trỏm lơ, và mắt người nào cũng trỏm lơ hết trơn. Chu cha! Nghĩ mình cũng dại thật, nếu mà mình làm muối đậu phộng ăn thì tốt hơn nhiều.
Cha Đông với mẹ cố linh mục Calistô Bá Năng Lý |
Những năm đó thật là vất vả, đi mua một chai thuốc đỏ mà thôi cũng phải chờ đến cả tiếng đồng hồ, khi gần tới phiên mình thì họ kéo cửa cái rụp rồi lạnh lùng nói: "Hết giờ!" Thế là lủi thủi đi về, vừa đi mà trong bụng vừa ấm ức tức tối, miệng thì lẩm bẩm cằn nhằn...
Cũng vào những năm đó vì chúng tôi không có hộ khẩu cho nên không được mua vải, ai có hộ khẩu thì mỗi năm một người được mua 1m vải.
Tới tháng 8 năm 1976 thì có quyết định phải giải tán Chủng Viện, điều này làm chúng tôi nghẹn ngào, đắng lòng và đắng miệng...
- 13.6.1976: Cha giám đốc Chủng Viện bị đưa đi cải tạo.
- 8.8.1976: Có quyết định giải tán Chủng Viện và tôi được chỉ định làm giám đốc Chủng Viện.
- 25.8.1976: Không còn một chủng sinh nào được phép ở lại Chủng Viện.
Đây là những tháng ngày u ám nhất đối với chúng tôi. Tôi cảm thấy rất đau khổ và trong khoảng thời gian này tôi cũng đã khóc rất nhiều.
Kể từ năm 1976 tới năm 1983 tôi làm quản lý cho Tòa Giám Mục.
Trong 7 năm ấy tôi đã làm đủ thứ nghề bất đắc dĩ như: làm lúa, trồng mì, trồng huỳnh tin, trồng gừng, trồng đậu phộng, rồi còn ép dầu đậu phụng mướn để lấy bã đậu nuôi heo, đặc biệt làm món cổ truyền của quê tôi là bánh tráng, rồi đem bánh tráng đổi lấy phân bò của người dân tộc, như thế họ có cái ăn mà mình lại có phân bò để bón cây. Trong chuồng heo không lúc nào là dưới 50 con, toàn là heo thượng, trông tướng mạo của nó thì xấu xí mà thịt lại rất ngon. Trong khuôn viên Tòa Giám Mục có rất nhiều cây me, tới mùa me tôi trở thành “chuyên gia” hái me, rồi đem bán để có thêm tiền mua cái ăn cho Tòa Giám Mục. Người ta gọi đùa tôi là Linh Mục theo "dòng Cây Me", chứ không gọi tôi là Linh Mục của dòng Menkisêđê...
Năm 1983 thì tôi bị kiệt sức và người ta chở tôi đi Bệnh Viện Nguyễn Văn Học ở Sàigòn (bây giờ là Bệnh Viện Ung Bướu, đường Nơ Trang Long). Tôi ở trong bệnh viện 33 ngày để chờ mổ bao tử, nhưng cuối cùng bác sĩ bảo: "Cái vết thương nó lành lại rồi nên khỏi cần phải mổ... Và thế là tôi về lại Kontum."
Đức Giám Mục cho tôi nghỉ, không phải làm quản lý Tòa Giám Mục nữa. Đến tháng 3 năm 1983, ngài nói: "Công việc của cha bây giờ là đi làm cha xứ ở Tân Phú."
Tôi làm cha sở ở Tân Phú được ba năm rưỡi. Tình nghĩa bà con Giáo Dân rất là mặn nồng, tôi cũng đi làm đổi công với Giáo Dân của tôi. Rồi dạy dỗ, tuy cũng có nhiều khó khăn nhưng rồi mọi việc cũng trôi qua tốt đẹp. Tình nghĩa của cha sở với Giáo Dân, của Giáo Dân với cha sở vô cùng đầm ấm.
Năm 1984, Đức Cha giao cho tôi coi thêm xứ Trung Nghĩa có khoảng 2.000 Giáo Dân, thay cho cha Trần Khánh Lê vì ngài bị bệnh nặng.
Tôi rất biết ơn Giáo Dân của hai Giáo Xứ này vì tình cảm chân thành của họ dành cho tôi, cùng với những gương tốt trong đời sống Đức Tin của họ, điều này đã nâng đỡ cho cuộc đời làm Linh Mục của tôi rất nhiều.
Tới một ngày kia, vào khoảng cuối năm 1985 thì Nhà Nước chủ trương là tất cả các Giám Mục Phó phải về Tòa Giám Mục (lúc đó Đức Cha phó là Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung đang ở Đức An, Pleiku, Đức Cha Chính thì đang ở Tòa Giám Mục Kontum, hai nơi cách nhau 50 cây số) cho nên Đức Cha Chung cũng phải về Tòa Giám Mục.
Đức Cha Lộc đề nghị tôi đi làm cha sở Đức An, ngài hỏi tôi: "Cha có bằng lòng đi Đức An không?" Lúc đó tôi đang ở Tân Phú, tôi nói: "Đức Cha sai con đi thì con đi, chớ mà hỏi con có bằng lòng không thì con không bằng lòng." Ngài hỏi: "Tại sao thế?" Tôi nói: "Con không chịu được lạnh, mà Pleiku là xứ lạnh... con thì ở dơ mà bụi bặm của Pleiku là đất đỏ. Con đã ở dơ mà còn làm biếng tắm thì nó dơ lắm. Lại nữa (tôi cũng nói thật với Ngài) con là dân Bình Định, con không hiểu tiếng Quảng Bình cho lắm, dân Đức An là dân Quảng Bình, mà dân Quảng Bình nói giọng trọ trẹ khó nghe."
Thế rồi Đức Cha hỏi tôi: "Như tôi thì sao?" (vì Ngài cũng là dân gốc Quảng Bình). Tôi nói: "Mỗi khi Đức Cha nói giọng đó con cũng khó nghe, khó hiểu nữa."
Đức Cha làm thinh nhưng rồi Ngài bảo tôi: "Khi nào Cha vui lòng thì tôi sai đi, chứ tôi không muốn Cha phải đi một cách miễn cưỡng." Tôi nói: "Con không miễn cưỡng, nếu Đức Cha sai con đi thì con đi... nhưng mà bằng lòng đi thì con không bằng lòng đi."
Tới Mùa Vọng năm 1985, ngài cứ vận động các sơ cầu nguyện cho các cha biết vâng lời. Các sơ cũng có nói với tôi. Tôi bảo: "Không phải là tôi không vâng lời, nhưng tôi không bằng lòng mà thôi, phải phân biệt hai điều đó chớ.
Cuối cùng tôi thấy thương Ngài cho nên tới Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng năm 1985, tôi nói với Ngài: "Con bằng lòng đi Đức An." Ngài bảo tôi: "Phải đi sớm trước năm Dương Lịch." Tôi nói: "Thưa Đức Cha, Đức Cha trình với Nhà Nước cho con đi trước năm Âm Lịch thôi."
Tôi cũng định kéo dài thời gian một chút vì tôi có khóa giáo lý rước lễ lần đầu phải lo. Đến gần Tết thì tôi xin Đức Cha: "Xin cho con ăn cái tết này với Giáo Dân của con, qua Tết rồi con sẽ đi."
Sau Tết thì tôi xin Đức Cha: "Cho con... sau Phục Sinh đi."
Đức Cha chấp thuận và Nhà Nước họ cũng đồng ý. Nhưng đến thứ sáu Tuần Thánh thì CA sở (hồi đó Gia Lai và Kontum là một tỉnh) đến gặp tôi; lúc đó tôi đang giải tội Mùa Chay. Họ nói: "Anh Đông chuẩn bị sau lễ (lễ Phục Sinh) thì phải đi Pleiku." Tôi nói: "Cho tôi tới kỳ hè đi, sau tĩnh tâm năm thì tôi đi cũng được." CA họ nói: "Tôi thấy giấy của Chính Quyền quyết định cho anh đi đấy, sau lễ là phải đi." Tôi nói nửa đùa nửa thật: "Chính quyến là mấy ông chớ còn ai nữa đâu..."
Thứ hai sau Lễ Phục Sinh (năm 1986) thì Đức Cha Lộc được gọi tới làm việc với CA, sau đó ngài cầm về một tờ giấy quyết định với nội dung là: "Ông Đông phải đi ngay xuống Đức An". Và ngày 19.4.1986, Đức Cha Alexis chính thức bổ nhiệm tôi làm cha sở Đức An.
Tôi ở Đức An gần 20 năm, kiêm nhiệm luôn kinh tế mới Vườn Mít, kinh tế mới Lò Than, kiêm nhiệm cả xứ La Sơn, xứ Lệ Chí, làng Hà Bàu Jarai (bây giờ là xã Chư Đang Ya, huyện Chư Pah), làng Ya Luh, sắc tộc Sê Đăng, xã Nghĩa Hưng, Chư Pah.
Ngày 27 tháng 7 năm 2005, tôi được bổ nhiệm về làm cha sở Giáo Xứ Thăng Thiên.
Năm 2011 tôi lại bị kiệt sức, rồi bị rối loạn tiền đình. Tôi lại về Sàigòn chữa bệnh. Bác sĩ bảo: "Máy nó chạy đã 70 năm nay rồi nên thứ gì ở trong máy nó cũng bị... rơ... rơ một chút. Vì thế mà cha cần có thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, cũng như cái ao nước nó đã hết nước rồi, bây giờ phải chờ nước mạch nó lên."
Vậy nên Đức Giám Mục đã sắp xếp cho Giáo Xứ một cha Phó (cha Trí dòng Tên)... vì thế mà tôi được đi nghỉ dưỡng bệnh gần 6 tháng ở Dòng Biển Đức tại Thủ Đức và Lộc Nam, gần Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Gia đình tôi có tám anh chị em 5 trai 3 gái, có một người đi tu sơ Dòng Nữ Vương Hòa Bình, còn tôi làm Linh Mục...
Tôi muốn nói những lời tâm tình này: Bởi vì cuộc đời của mình thật là vắn vỏi. Con cháu của tôi đứa nào cũng lo bươn trải làm ăn mà ít khi nghĩ về đời sống đạo đức hay biết lo chuẩn bị về đời sau của mình. Tôi muốn những người thân của tôi được biết: Sức khoẻ thì nó mỏng và dòn, cuộc đời thì vắn vỏi, chúng ta phải sống như thế nào để chúng ta có thể mưu cầu cho đời sống hôm nay của chúng ta, ngoài ra mỗi chúng ta cũng phải có bổn phận phải mưu cầu cho đời sống đời đời của chúng ta.
Sinh ký Tử quy: Cha ông mình đã nói như thế. Cuộc sống chỉ là tạm, khi mình chết thì mình mới đi vào cuộc sống vĩnh cửu của mình.
Tôi luôn nhớ câu nói của Đại Thi Hào Tagore: "Nếu bạn yêu cuộc sống mình thì bạn cũng phải yêu cái chết của mình, bởi vì cái chết chính là cánh cửa mở ra để bạn bước vào cuộc sống đích thực của mình". Tôi không có ý chỉ trích một ai mà đây chỉ là những tâm tình được bộc lộ cho những người mình thương, để làm thế nào khi sống chúng ta biết được mục đích sống của chúng ta là cái gì? Tại sao chúng ta sống? Và khi chết thì chúng ta sẽ đi về đâu?
Người xưa có đặt vấn đề: Nhân sinh hà tại? Tại thế hà như? Hậu thế như hà? Người ta đặt vấn đề mà chưa có câu trả lời. Chính niềm tin của Kitô Giáo đã trả lời được những câu này:
Nhân sinh hà tại? Con người do đâu mà có? Thưa: Thiên Chúa dựng nên mỗi người chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta, Ngài ban sự sống cho chúng ta.
Tại thế hà như? Trong cuộc sống này thì phải sống như thế nảo? Cuộc sống này thì phải sống Đạo đức, sống Đạo Đức sẽ làm nên giá trị cuộc sống con người.
Hậu thế như hà? Sau cái chết sẽ ra sao? Thưa là khi chết chúng ta sẽ về Nhà Cha trên Trời: "Thầy đi trước, Thầy dọn chỗ cho chúng con, hễ Thầy ở đâu thì chúng con ở đó với thầy".
Lm. Phêrô NGUYỄN VÂN ĐÔNG