Lời Giới Thiệu Bản Dịch
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Cuộc thi Giải Viết Văn Đường Trường V, 2017, với hai chủ
đề về Mẹ Fatima và phong trào Đại kết đã trôi qua. Thời gian kỷ niệm 500 năm cuộc
Cải cách Tin Lành của Martin Luther và 50 năm hành trình hiệp nhất các Giáo hội
Kitô cũng đang kết thúc. Chúng ta tạ ơn Chúa vì những hạt giống Chúa gieo xuống
đã âm thầm mọc và dần dần đơm hoa kết quả. Một trong những dấu chỉ của điều ấy
là bản dịch dưới đây của “Bản Tuyên bố chung giữa Liên hiệp Tin Lành Luther Thế
giới và Giáo hội Công giáo về Giáo lý về ơn Công chính hóa”.
Bản Tuyên bố chung này là kết quả của nhiều chục năm
làm việc chung giữa Liên hiệp các Giáo hội Luther Toàn cầu và Hội đồng Giáo
hoàng Cổ võ Sự Hiệp nhất Kitô giáo thuộc Giáo hội Công giáo, được hoàn thành
năm 1999; sau đó Hội đồng Thế giới Giáo hội Giám lý cùng tiếp nhận ngày
18-7-2006 và ngày 05-7-2017 các nhà lãnh đạo của Khối Hiệp thông các Giáo hội Cải
cách Toàn cầu, đại diện cho 80 triệu tín hữu thuộc các hệ phái Congregational,
Presbyterian, Reformed, United, Uniting and Waldensian cũng đã cùng ký tên vào
bản Tuyên bố chung này.
Ngày 31-10-2017, trong
buổi cầu nguyện tại tu viện Westminster, kỷ niệm 500 năm việc Martin
Luther đóng đinh 95 luận văn chống Giáo Hội Công Giáo trước cửa nhà thờ Các
Thánh tại Schlosskirche thuộc xứ Wittenberg, bên Đức, Hội đồng tư vấn Anh giáo
đã chính thức chấp nhận bản Tuyên bố
chung này.
Ở khởi đầu việc vận động cuộc thi lần V, Ban Tổ chức Giải
Viết Văn Đường Trường rất mong ước giới thiệu bản văn này đến các tác giả muốn
tham gia cuộc thi và đã tìm người phiên dịch. Thế nhưng bản văn không đơn giản.
Hai anh Đình Chẩn và Tú Ân đã cố gắng tối đa để có được một bản dịch sơ khởi.
Chúng tôi đã nhờ một linh mục đang giảng dạy thần học tín lý giàu kinh nghiệm dịch
thuật xem lại giúp nhưng chưa được. Thế rồi mới đây, đang khi tiến hành xuất bản
quyển Những đứa con của Mẹ, và tập hợp
bài cho một tuyển tập nữa tiếp sau cuộc thi, cũng với chủ đề Đại kết, chúng tôi
được cha Giuse Lê Công Đức, nhận lời giúp hiệu đính bản dịch. Cha Đức là linh mục
thuộc tu hội Xuân Bích, đang tham gia giảng dạy tại Đại chủng viện Huế. Chỉ hơn
nửa tháng, cha đã gửi lại cho chúng tôi bản dịch đã hiệu đính, vừa lưu loát dễ
hiểu về hình thức vừa chính xác về nội dung. Dù sao, đây vẫn chỉ là một cố gắng
riêng nhằm giúp các con cái Chúa tại Việt Nam tiếp cận với văn kiện đáng quý
này. Ước mong các cấp thẩm quyền của đôi bên tại Việt Nam sớm có một tiếng nói
chính thức.
Bản dịch được thực hiện theo phiên bản tiếng Anh, có một
số đoạn theo phiên bản tiếng Pháp (khi phiên bản này dễ hiểu hơn). Độc giả có thể tham khảo bản tiếng Anh hoặc tiếng Pháp .
Xin được trân trọng giới thiệu với quý độc giả và cách
riêng với quý tác giả đang tiếp tục sáng tác cho sự nghiệp hiệp nhất của các
con cái Chúa.
Qui Nhơn, 31-10-2017
Linh mục Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
BẢN TUYÊN BỐ CHUNG CỦA LIÊN HIỆP TIN LÀNH LUTHER THẾ GIỚI VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VỀ GIÁO LÝ VỀ ƠN CÔNG CHÍNH HÓA
DẪN
NHẬP
1. Giáo lý về ơn công chính hóa có tầm quan
trọng cốt yếu đối với Phong trào Cải cách
Luther ở thế kỷ XVI. Nó được coi là “điều khoản tiên quyết và chính yếu”[1], đồng thời “định hướng và sàng lọc mọi mảng khác của giáo
lý Kitô giáo”[2].
Cách riêng, việc khẳng định và bênh vực giáo lý về ơn công chính hóa theo hình
tháiCải cách vốn được coi là cách lượng giá tiêu biểu phản kháng lại Giáo hội
Công giáo Rôma và thần học thời bấy giờ, vốn khẳng định và bảo vệ một giáo lý
về ơn công chính hóa mang màu sắc khác. Theo quan điểm Cải cách, ơn công chính
hóa là mấu chốt của mọi tranh luận. Cả các bản Tuyên tín của Luther[3]lẫn
Công đồng Trento của Giáo hội Công giáo Rôma đều đã đưa ra những kết án về giáo
lý vẫn còn hiệu lực đến nay khiến các Giáo hội tiếp
tục bị phân cách.
2. Đối với truyền thống Luther, giáo lý về ơn
công chính hóa vẫn giữ vị thế đặc biệt của nó. Thế nên, ngay từ đầu, nó chiếm
một chỗ quan trọng trong cuộc đối thoại chính thức giữa Giáo hội Luther và Giáo
hội Công giáo Rôma.
3. Chúng ta cần phải đặc biệt chú ý tới những
bản đúc kết đã có được, gồm có các văn bản “Tin mừng và Giáo hội” (1972),[4]và “Giáo
hội và Ơn Công chính hóa” (1994)[5]
của Ủy ban Hỗn hợp
Luther và Công giáo Rôma, văn bản “Ơn Công chính hóa bởi Đức tin” (1983)[6]đúc
kết cuộc đối thoại giữa Luther và Công giáo Rôma ở Mỹ, và văn bản tựa đề “Những
kết án hồi thế kỷ xvi nay còn giá trị
không?” (1986)[7] của Nhóm các Nhà thần học
Tin Lành và Công giáo ở Đức hoạt động cho Đại kết. Một số bản đúc kết đối thoại
này đã được các Giáo hội chính thức đón nhận. Ví dụ điển hình chosự đón nhận ấy
là sự kiện Liên hiệp Giáo hộiTin Lành Luther ở Đức nhất trí hưởng ứng công
trình nghiên cứu “Các bản kết án”, được đưa ra vào năm 1994 với sự nhìn nhận
cao cấp nhất của Giáo hội, cùng với các giáo hội khác thuộc Giáo hội Tin Lành ở
Đức.[8]
4. Trong các cuộc thảo luận giáo lý về ơn công
chính hóa, tất cả các bản đúc kết đối thoại cũng như các phản hồi đều cho thấy một
sự đồng thuận cao độ về những cách tiếp cận và các kết luận. Bởi thế, đã đến
lúc cần phải tổng kết và tóm tắt lạikết quả của việc đối thoại về ơn công chính
hóa, để các Giáo hội của chúng ta được biết khái quát thành quả cuộc đối thoại
này trong mức độ chính xác và cô đọng cần thiết, nhờ đó có thể đưa ra những
quyết định có sức ràng buộc.
5. Bản Tuyên bố chungnày
muốn cho thấy rằng trên cơ sở đối thoại, các Giáo hội Luther nêu tên dưới đây[9]và Giáo
hội Công giáo Rômagiờ đây có thể nêu rõ cùng một nhận thức chung về sự công
chính hóa của chúng ta nhờ ơn sủng Thiên Chúa qua đức tin vào Đức Kitô. Bản
Tuyên bố này không bao gồm tất cả những gì Giáo hội hai bên giảng dạy về sự công
chính hóa; nhưng nó chứa đựng một sự đồng thuậntrên những chân lý căn bản của
giáo lý về ơn công chính hóa, và cho thấy rằng những khác biệt còn tồn đọng
trong cách giải thích không còn là cớ để đôi bên kết án lẫn nhauvề giáo
lý.
6- Bản Tuyên bố này không phải là một trình bày
mới và độc lập với các bản đúc kết và văn kiện đối thoại từ trước đến nay, càng
không nhằm thay thế cho những bản văn ấy. Đúng hơn, như phần phụ lục liệt kê các
tài liệu nguồn cho thấy, Tuyên bố nàythường xuyên tham chiếu các bản văn ấy
cũng như các luận điểm của chúng.
7- Như chính các cuộc đối thoại, Bản Tuyên bố chung này dựa trên niềm xác
tín rằng trong khi vượt qua các vấn đề tranh luận và những bản kết án về giáo
lý xưa kia, các Giáo hội không hề xem nhẹ các điều lên án ấy, cũng không chối
bỏ quá khứ của mình. Trái lại, Bản Tuyên bố này được hình thành bởi xác tín
rằng theo dòng lịch sử nay các Giáo hội của chúng ta đã đạt tới những nhận thức
mới mẻ. Những phát triển cho tới nay không chỉ tạo điều kiện mà còn đòi các Giáo
hội phải khảo sát lại các vấn nạn và các bản kết án gây chia rẽ, cũng như phải
nhìn chúng trong một ánh sáng mới.
1- THÔNG ĐIỆP KINH THÁNH VỀ ƠN CÔNG CHÍNH HÓA
8- Chính nhờ cùng nhau
lắng nghe Lời Chúa trong Kinh thánh, chúng ta đạt đến những nhận thức mới mẻ
như thế. Chúng ta đã cùng nhau nghe sách Tin mừngbảo chúng ta rằng “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Ngài thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời”
(Ga 3,16). Tin mừng này được diễn tả trong Kinh thánh bằng nhiều cách khác
nhau. Trong Cựu ước, chúng ta lắng nghe Lời Chúa nói về tình trạng tội lỗi của
con người (Tv 51,1-5; Dn 9,5tt.; Gv/Qo 8,9tt.; Er 9,6tt.) và sự bất tuân phục
của con người (St 3, 1-19; Neh 9,16tt., 26), cũng như về “đức công chính” của
Thiên Chúa (Is 46,13; 51,5-8, 56,1 [x.53,11]; Ger 9,24) và về sự “phán xử” của
Ngài (Gv/Hc 12,14; Tv 9,5; 76,7-9).
9- Trong Tân ước, những luận
đề khác nhau về “đức công chính” và “ơn công chính hóa” gặp thấy trong các bản
văn của Mátthêu (5,10; 6,33; 21,32), Gioan (16,8-11), thư Do Thái (5,3; 10,37tt.),
và Giacôbê (2,14-26).[10]
Trong các thư của Thánh Phaolô cũng thế, ân ban cứu rỗi được trình bày bằng
nhiều cách, chẳng hạn: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải
thoát chúng ta” (Gl
5,1-13; x. Rm 6,7), “đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (2Cr 5,18-21; x. Rm
5,11), “bình an với Thiên Chúa” (Rm 5,1), “thụ tạo mới” (2Cr 5,17), “sống cho
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 6,11-23), hay “được hiến thánh trong Đức
KitôGiêsu” (x. 1Cr 1,2; 1,30; 2Cr 1,1). Đứng đầu những bản văn này là đoạn nói
về “ơn công chính hóa” của con người tội lỗi nhờ ơn Chúa ban qua đức tin (Rm
3,23-25), đây là đoạn được nêu bật cách đặc biệt ở thời Cải cách.
10- Phaolô đã nói rõ
rằng Tin mừng chính là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ con người đã sa ngã
dưới quyền lực tội lỗi, chính là sứ điệp loan báo “sự
công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin” (Rm 1,16tt.), cùngban “ơn công chính hóa” (Rm
3,21-31). Khi áp dụng cho Chúa phục sinh điều mà Giêrêmia đã loan báo về chính
Thiên Chúa (Gr 23,6), ngài công bố Đức Kitô như là “đức công chính của chúng
ta” (1Cr 1,30), . Mọi chiều kích công cuộc cứu độ của Đức Kitô đều cắm rễ trong
cái chết và sự phục sinh của Ngài, vì Ngài là “Chúa chúng ta, Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm
cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25). Bất cứ ai cũng đều cần đến đức công chính của Thiên
Chúa, “mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang
Thiên Chúa” (Rm 3,23; x. Rm
1,18-3,20; 11,32; Gl 3,22). Trong thư Galát (3,6) và Rôma (4,3-9), Phaolô hiểu
đức tin của Abraham (St 15,6) như là đức tin vào vị Thiên Chúa làm cho tội nhân
nên công chính (Rm 4,5), và dựa vào chứng từ của Cựu ước, ngài xác nhận sứ điệp
Tin mừngrằng sự công chính này sẽ dành cho tất cả những ai tin tưởng vào lời
hứa của Thiên Chúa như Abraham. “Người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống” (Hb 2,4;
x Gl 3,11; Rm 1,17). Trong các thư của Phaolô, đức công chính của Thiên
Chúa cũng chính là quyền năng của Ngài đối với những người có lòng tin (Rm
1;16; 2 Cr 5;21). Trong Đức Kitô, Ngài biến nó thành sự công chính của chúng ta
(2Cr 5,21). Chúng ta được công chính hóa nhờ Đức Giêsu Kitô, “Đấng Thiên Chúa
đặt làm nơi xá tội bằng máu của Ngài, nên hữu hiệu qua đức tin’ (Rm 3,25;
x.3,21-28). ‘Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em
được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8tt.).
11- Ơn công chính hóa là
sự tha tội (x. Rm 3;23-25; Cv 13;39; Lc 18;14), sự giải thoát khỏi quyền lực
thống trị của tội lỗi và sự chết (Rm 5;12-21) và khỏi sự nguyền rủa của lề luật
(Gl 3,10-14). Đó là sự chấp nhận đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, nay đã có
rồi, nhưng chỉ toàn vẹn khi vương quốc Thiên Chúa đến (Rm 5,1tt.). Ơn công
chính hóa giúp kết hợp với Đức Kitô,với cái chết và sự phục sinh của Ngài (Rm
6,5). Nó xảy ra khi ta đón nhận Thánh Linh qua phép thánh tẩy và được tháp nhập
vào một thân thể duy nhất (Rm 8,1- 9; 1Cr 12,12tt.). Tất cả những điều này đều do
một mình Thiên Chúa, vì Đức Kitô, nhờ ân sủng, qua đức tin vào “Tin mừng của
Con Thiên Chúa” (Rm 1,1-3).
12- Những người được
công chính hóa thì sống bởi đức tin phát xuất từ Lời của Đức Kitô (Rm 10, 17), đức
tin được linh hoạt nhờ đức ái (Gal 5,6) và là hoa trái của Thánh Linh (Gl 5,22tt.).
Tuy nhiên, vì người được công chính hóa bị tấn công cả từ bên trong lẫn bên
ngoài bởi những quyền lực cũng như bởi các dục vọng (Rm 8,35-39; Gl 5,16-21) và
sa vào tội lỗi (1Ga 1,8-10), nên họ phải liên lỉ nghe lại các lời hứa của Thiên
Chúa, xưng thú tội lỗi của mình (1Ga 1,9), tham dự vào mình máu Chúa Kitô, và
được giáo huấn để sống công chính theo ý muốn của Thiên Chúa. Đó là lý do tại
sao vị Tông Đồ nói với người được công chính hóa rằng: “Anh em hãy biết run sợ và
gắng sức lo sao cho mình được cứu độ; vì chính Thiên
Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Ngài” (Pl 2,12-13). Thế nhưng Tin Mừng vẫn còn đó: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su, thì không còn bị lên
án nữa” (Rm 8,1), và Đức
Kitô sống trong họ (Gl 2,20). Nhờ công cuộc công chính của Đức Kitô “mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được
sống” (Rm 5,18).
2- GIÁO LÝ VỀ ƠN CÔNG CHÍNH HÓAXÉT NHƯ VẤN ĐỀ ĐẠI KẾT
13- Việc đôi bên cắt
nghĩa và áp dụng thông điệp Kinh thánh về ơn công chính hóa trái ngược nhau hồi
thế kỷ XVI đã là nguyên nhân chính gây chia rẽ trong Giáo hội Tây phương và dẫn
tới những bản kết án về giáo lý. Vì thế, một cách hiểu chung về ơn công chính hóa
là điều thiết yếu căn bản cần phải có để vượt qua sự chia rẽ ấy. Nhờ tiếp nhận
những ánh sáng từ các công trình nghiên cứu Kinh thánh gần đây, và dựa vào những
khảo cứu hiện đại về lịch sử thần học và lịch sử các tín điều, cuộc đối thoại
đại kết hậu Công đồng Chung Vaticanô II đã đạt tới một điểm gặp gỡ đáng ghi
nhận về ơn công chính hóa, mà kết quả là Bản
Tuyên bố chung này có thể trình bày rõ ràng một sự đồng thuận về các chân
lý căn bản liên quan đến giáo lý về ơn công chính hóa. Trong ánh sáng của sự đồng
thuận này, những bản kết án giáo lý lẫn nhau ở thế kỷ XVI không còn áp dụng cho
đôi bên hiện nay nữa.
3. CÁCH HIỂU CHUNG GIỮA ĐÔI BÊN VỀ ƠN CÔNG CHÍNH HÓA
14- Các Giáo hội Luther và Giáo hội Công giáo
Rôma đã cùng nhau lắng nghe Tin mừng được loan báo trong Kinh thánh. Việc cùng
nhau lắng nghe, cùng với những thảo luận thần học trong những năm gần đây, đã
dẫn đến một cách hiểu chung giữa đôi bên về ơn công chính hóa. Điều này bao gồm
một sự đồng thuận về những chân lý căn bản; những giải thích khác biệt trong những
tuyên bố riêng đều tương hợp với sự đồng thuận này.
15- Trong đức tin, chúng ta cùng nhau xác tín
rằng ơn công chính hóa là công trình của Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha sai Con Ngài vào
thế gian để cứu độ những người tội lỗi. Nền tảng và tiền đề của ơn công chính
hóa là sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Vì thế, công chính
hóa có nghĩa rằng chính Đức Kitô là sự công chính của chúng ta, còn chúng ta thì
được dự phần vào sự công chính ấy nhờ Thánh Linh, theo ý muốn của Chúa Cha.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng: Chính là chỉ nhờ ân sủng do đức tin vào
công trình cứu độ của Đức Kitô đem lại, chứ không nhờ công trạng gì của mình,
mà chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận và được lãnh nhận Thánh Linh, Đấng đổi
mớitâm hồn chúng ta, đồng thời trang bị cho chúng ta và kêu gọi chúng ta làm các
việc lành.[11]
16- Mọi người đều được
Thiên Chúa kêu gọi đón nhận ơn cứu độ trong Đức Kitô. Chúng ta được công chính
hóa chỉ nhờ một mình Đức Kitô, khi chúng ta đón nhận ơn cứu độ này trong đức
tin. Đức tin chính là ân ban của Thiên Chúa mà Thánh Linh đang dùng lời và bí
tích để thực hiện trong cộng đoàn tín hữu, và đồng thời chính Thánh Linh hướng
dẫn các tín hữu đổi mới đời sống vốn sẽ được Thiên Chúa đưa đến hoàn thành trong
sự sống đời đời.
17- Tất cả chúng ta cùng
xác tín rằng thông điệp về ơn công chính hóa hướng chúng ta cách đặc biệt đến tâm
điểm của chứng từ Tân ước về hành động cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô: Nó
nói với ta rằng, vì là tội nhân, ta có được sự sống mới chỉ hoàn toàn nhờ vào lòng
xót thương tha thứ và đổi mới được Thiên Chúa ban tặng như một ân huệ, và ta đón
nhận trong đức tin, chứ không bao giờ ta xứng đáng cả.
18- Như vậy, khi lặp lại và giải thích thông
điệp ấy, giáo lý về ơn công chính hóa không chỉ là một phần của giáo lý Kitô
giáo. Nó liên quan thiết yếu đến tất cả mọi chân lý đức tin, vốn phải được nhìn
trong liên hệ nội tại với nhau. Đó là một tiêu chuẩn bắt buộc, không ngừng giúp
cho mọi giáo huấn và thực hành của các Giáo hội được qui hướng về Chúa Kitô.
Khi ngườiTin Lành Luther nhấn mạnh tầm quan trọng vô song của tiêu chuẩn này,
họ không hề phủ nhận mối liên hệ hỗ tương và ý nghĩa của tất cả các chân lý đức
tin. Còn người Công giáo, đang khigắn kết vớinhiều tiêu chuẩn, vẫn không phủ
nhận vai trò đặc biệt của sứ điệp về ơn công chính hóa. Cả hai bên, người Luther
và người Công giáo, đều nhắm mục tiêu tuyên xưng Chúa Kitô ở khắp nơi, đặt hết
tin tưởng nơi một mình Ngài là Đấng trung gian duy nhất (1Tm 2,5tt.), qua Ngài,
Thiên Chúa tự hiến mình trong Thánh Linh và đổ tràn những ân huệ đổi mới của
Ngài.[xemCác tài liệu nguồn, chương3].
4- GIẢI THÍCH CÁCHHIỂU CHUNG VỀ ƠN CÔNG CHÍNH HÓA
4.1. Con ngườivốn yếu hèn và tội lỗi không thể tự làm cho mình nên công chính
19- Chúng ta cùng tuyên
xưng rằng, muốn được cứu độ, mọi người đều phải hoàn toàn lệ thuộc vào ân sủng
cứu độ của Thiên Chúa. Họ có thể tự do đối với người khác và đối với mọi vật
trên thế gian này nhưng không thể tự do về ơn cứu độ, bởi lẽ, vì là tội nhân,
họ phải chịu sự phán xét của Thiên Chúa và không thể tự mình trở về với Thiên Chúa
để được giải thoát, để xứng đáng với ơn công chính hóa trước nhan Thiên Chúa,
hay để đạt được ơn cứu độ bằng những khả năng của riêng mình. Sự công chính
hóaxảy ra hoàn toàn là do ân sủng của Thiên Chúa. Cả người Công giáo và người Luther
cùng tuyên xưng như thế, cho nên có thể nói được rằng:
20- Khi người Công giáo
nói rằng con người góp phầnvào việc chuẩn bị cũng như đón nhận ơn công chính
hóa, thuận tình với hành vi công chính hóa của Thiên Chúa, thì họ xem sự đích
thân thuận tình ấynhưmột hiệu quả của ân sủng, chứ không phải là một hành động có
được do những khả năng bẩm sinh của con người.
21- Theo cách hiểu của người
Luther, con người không có khả năng cộng tác vào việc cứu rỗi chính mình, bởi
lẽ, đã là tội nhân thì họ vốn đang thực sự chống lại Thiên Chúa và hành động
cứu độ của Ngài. Những người Luther không phủ nhận là người ta có thể từ chối
hoạt động của ân sủng. Khi họ nhấn mạnh rằng con người chỉ có thể lãnh nhận ơn
công chính hóa (hoàn toàn thụ động), họ có ý loại trừ hết mọi khả năng đóng góp
của con người vào ơn công chính hóa của chính mình, nhưng không phủ nhận rằng
con người cần phải đích thân dự phần vào đó trong đức tin, nhờ Lời Chúa tác động.
4.2.Ơn công chính hóalà ơn tha tội và làm cho ta nên công chính
22- Chúng ta cùng tuyên
xưng rằng Thiên Chúa tha thứ tội lỗi bằng ân sủng và đồng thời giải thoát con
người khỏi quyền lực thống trị của tội lỗi và trao ban ơn sự sống mới trong Đức
Kitô. Khi con người được dự phần với Đức Kitô nhờ đức tin, Thiên Chúa không còn
qui tội cho họnữa, nhưng Ngàinhờ Thánh Linh để kiến tạo nơi họ một tình yêu
năng động. Hai khía cạnh ấy nơi hoạt động ân sủng của Thiên Chúa không tách rời
nhau. Chính việc con người nhờ đức tin mà được hiệp nhất với Đức Kitô, là hiện
thân sự công chính của chúng ta (1 Cr 1,30), làm cho họ cùng lúc vừa được tha
tội vừa được Thiên Chúa cứu độ ở với mình. Cả người Công giáo và người Luther
cùng tuyên xưng như thế, cho nên có thể nói được rằng:
23- Khi người Luther nhấn mạnh rằng sự công
chính của Đức Kitô làm nênsự công chính của chúng ta, thì trước hết họ có ý
khẳng định rằng chính khi được Thiên Chúa tuyên bố tha thứ, tội nhân nhận được sự
công chính trước nhan Thiên Chúa trong Đức Kitô, và chỉ trong sự hiệp nhất với
Đức Kitô đời sống con người mới được đổi mới. Khi người Luther nhấn mạnh rằng
ân sủng Thiên Chúa là tình yêu tha thứ (‘ân huệ của Thiên Chúa[12]’),
họ không phủ nhận việc đổi mới đời sống Kitô hữu nhưng muốn khẳng định rằng ơn
công chính hóa không lệ thuộc sự cộng tác của con người, cũng không lệ thuộc
vào các hiệu quả đổi mới do ân sủng nơi bản thân mỗi người.
24- Khi người Công giáo nhấn mạnh rằng do việc lãnh
nhận ân sủng, người tín hữu nhận được sựđổi mới con người nội tâm như nhận một món
quà[13],
họ muốn khẳng định rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa luôn luôn mang lại ânban một
đời sống mới sẽ nhờ Thánh Linh mà trở nên hữu hiệu trong một tình yêu năng động.
Như vậy họ không phủ nhận rằng ân ban công chính hóa của Thiên Chúa vẫn độc lập
với sự cộng tác của con người. [x. Các tài liệu nguồn,mục 4.2]
4.3.- Được nên công chính bởi đức tin và nhờ ân sủng
25- Chúng ta cùng tuyên xưng rằng tội nhân được
công chính hóa nhờ đức tin vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô. NhờThánh
Linh tác động trong phép thánh tẩy, họ được ban ơn cứu độlà nền tảng củatoàn bộ
đời sống Kitô hữu. Họ tín thác nơi lời hứa đầytừ tâm của Thiên Chúa nhờ đức tin
có sức công chính hóa, vốn bao gồm cả lòng cậy trông và mến yêu Thiên Chúa. Đó
là một đức tin đầy năng động trong tình yêu, vì thế, người Kitô hữu không thể
và không nên ươn lười không chịu làm việc lành. Thế nhưng mọi sự nơi người được
công chính hóa, dù đi trước hay theo sau ơn đức tin được Chúa ban không,không
một điều gì có thể là nền tảng của ơn công chính hoá, hoặc làm nên công trạng
để xứng đáng được ơn ấy.
26- Theo cách hiểu của người Luther, Thiên Chúa
công chính hóa tội nhân chỉ bằng đức tin mà thôi (sola fide). Trong đức tin, mỗi người đặt hết lòng tin tưởng nơi
Đấng Tạo Hóa và là Cứu Chúa của mình, và như thế họ sống hiệp thông với Ngài.
Chính Thiên Chúa khơi gợi nên đức tin khi Ngài tạo ra lòng tin tưởng như thế
bằng lời sáng tạo của Ngài. Vì là một sáng tạo mới, hành vi ấy của Thiên Chúa
ảnh hưởng đến mọi chiều kích của con người và dẫn tới một đời sống trong đức
cậy và đức ái. Như thế, giáo lý về “sự công chính hóa chỉ bởi đức tin” phân
biệt nhưng không tách lìaơn công chính hóa với việc đổi mớiđời sống của con
người vốn dĩ đi liền với ơn công chính hóa, và nếu không có việc đổi mới này thì
nói được là không có đức tin. Như vậy đã thấy rõ nền móng mà từ đó việc đổi mới
đời sống phát xuất ra, vì nó phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa được ban cho con
người trong ơn công chính hóa. Ơn công chính hóa và việc đổi mới được nối kết mật
thiết trong Đức Kitô, Đấng hiện diện trong đức tin.
27- Cách hiểu của người Công
giáo cũng nhấn mạnh đức tin là nền tảng ơn công chính hóa. Không có đức tin,
thì không thể có ơn công chính hóa. Nhờ nghe Lời Chúa và tin vào Lời ấy mà
người ta được công chính hóa qua phép thánh tẩy. Sự công chính hóa các tội nhân
chính là sự tha tội và được nên ngay chính bằng ơn đem lại sự công chính, ơn
làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa. Trong sự công chính hóa, người ngay
chính lãnh nhận đức tin, đức cậy và đức mến từ Đức Kitô, và nhờ đó họ được đưa
vào trong mối hiệp thông với Ngài.[14]Mối
tương quan hữu ngã mới mẻ này với Thiên Chúa hoàn toàn đặt nền trên lòng thương
xót của Thiên Chúa, và vẫn luôn luôn phụ thuộc vào công cuộc sáng tạo và cứu
chuộc của Thiên Chúa nhân lành, Đấng thành tín với chính mình, nhờ đó con người
có thể tin cậy nơi Ngài. Như thế, ơn công chính hóa không bao giờ trở thành một
vật sở hữu của một ai để họ có thể dương dương tự đắc với Thiên Chúa. Cách hiểu
của phía Công giáo nhấn mạnh đến việc đổi mới đời sống bằng ơn công chính hóa.
Việc đổi mới trong đức tin, đức cậy và đức mến này luôn tùy thuộc vào ân sủng
vô biên của Thiên Chúa, và không thêm gì vào ơn công chính hóađể cho người ta có
thể tự hào trước nhan Thiên Chúa (Rm 3:27). [x. Các tài liệu nguồn, mục 4.3]
4.4-
Người được công chính hóa là tội nhân
28- Chúng
ta cùng tuyên xưng rằng trong phép thánh tẩy, Thánh Linh kết hiệp con người với
Đức Kitô, công chính hóa người ấy và thực sự đổi mới người ấy. Dù vậy, người
được công chính hóa ấy suốt đời vẫnkhông
ngừng cần đến ơn công chính hóavô điều kiện của Thiên Chúa. Họ vẫn luôn phải
đối diện với quyền lực tội lỗi tấn công đàn áp (x Rm 6,12-14), và không được
miễn khỏi sự liên lỉ đấu tranh với nhữngdục vọng ích kỷ của con người cũ đang
chống lại Thiên Chúa (x. Gl 5,16; Rm 7,7-10). Hằng ngày, người được công chính
hóa vẫn phải cầu xin Thiên Chúa thứ tha cho mình như trong Kinh Lạy Cha (Mt
6,12; 1Ga 1,9). Họ vẫn luôn được kêu gọi hoán cải thống hối, và luôn được ban
lại ơn thứ tha.
29- Theo cách hiểu của
người Luther,thân phậnngười Kitô hữu là thế, “vừa là người công chính vừa là
tội nhân”. Họ đúng là công chính, bởi Thiên Chúa đã tha tội cho họ qua Lời và Bí
tích, rồi ban cho cảsự công chính của Đức Kitô mà họ nhận được trong đức tin.
Trong Đức Kitô, họ được làm cho nên công chính trước nhan Thiên Chúa. Tuy
nhiên, khi nhìn lại mình qua lề luật, họ nhận ra rằng mình vẫn hoàn toàn là tội
nhân. Tội lỗi vẫn sống trong họ (1Ga 1,8; Rm 7,17-20), vì họ không ngừng hướng
đến các tà thần và không yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu nguyên vẹn như
Thiên Chúa là Đấng tác tạo nên họ đòi hỏi (Đnl 6,5; Mt 22,36-40). Sự phản
nghịch cùng Thiên Chúa như vậy chính là tội lỗi thực sự. Tuy nhiên, quyền lực
thống trị của tội lỗi bị phá vỡ nhờ công nghiệp của Đức Kitô. Nó không còn là
một tội lỗi “chế ngự” Kitô hữu nữa, vì chính nó “bị chế ngự” bởi Đức Kitô, Đấng
mà người được công chính hóa gắn kết trong đức tin. Do đó, trong cuộc sống này,
Kitô hữu có thể sống công chính một phần nào. Cho dù tội lỗi, Kitô hữu vẫn
không tách rời Thiên Chúa, bởi vì trong khi trở về với phép thánh tẩy mỗi ngày,
con người vốn đã được tái sinh bởi phép thánh tẩy và bởi Thánh Linh nay được
thứ tha tội lỗi. Như thế, tội lỗi ấy không còn đem lại sự nguyền rủa hay cái chết
đời đời nữa[15]. Vì thế, khi nói rằng
những người được công chính hóa cũng là những tội nhân, và rằng việc họ chống
lại Thiên Chúa là tội lỗi thực sự, thì những người Luther không hề phủ nhận rằng,
dù có tội như thế, người ta vẫn không bị tách khỏi Thiên Chúa, và tội lỗi ấy là
tội lỗi “đã bị chế ngự”. Trong những khẳng định này, họ đồng ý với người Công
giáo Rôma, mặc dù có sự khác biệt trong cách hiểu về tội nơi những người được
công chính hóa.
30- Người Công giáocho
rằng ân sủng của Đức Giêsu Kitô trao ban trong phép thánh tẩy nhổ sạch tất cả
những gì thực sự là tội lỗi và tất cả những gì ‘đáng bị lên án’ (Rm 8,1).[16]
Tuy nhiên, con người vẫn còn một khuynh hướng xấu (dục vọng) phát xuất từ tội
và đẩy họhướng đến tội lỗi. Theo xác tínCông giáo, để gọi được là tội của một
người thì đòi phải có sự can dự của bản thân họ, và bởi lẽtrong khuynh hướngấy
thiếu yếu tố bản thân, nên không thể gọi khuynh hướng là tội theo đúng nghĩa. Họ
không phủ nhận rằng khuynh hướng ấy không phù hợp với ý định ban đầu của Thiên
Chúa trên nhân loại, và rằng theo khách quan, nó chống lại Thiên Chúa và nó vẫn
là kẻ thù mà con người phải chiến đấu suốt đời. Người Công giáo nhấn mạnh rằng,
nhờ Đức Kitô giải cứu, khuynh hướng phản nghịch Thiên Chúa này không đáng bị
phạt phải chết đời đời,[17]
cũng như nó không còn tách lìa người công chính ra khỏi Thiên Chúa. Thế nhưng,
khi kẻ được công chính hóa cố tình táchmình ra khỏi Thiên Chúa, thì việc họ quay
lại tuân giữ các giới răn sẽ không đủ, họ còn phải lãnh nhận ơn tha thứ và ơn
bình an trongBí tích Hòa Giải qua lời xá tội được ban cho họ nhờ vào công trình
hoà giải của Thiên Chúa trong Đức Kitô.[x.
Các tài liệu nguồn,mục 4.4]
4.5- Lề luật và Tin mừng
31- Chúng ta cùng tuyên xưng rằng con người được công chính
hóa nhờ tin vào Tin mừng “chứ không phải vì làm những
gì Luật dạy” (Rm 3,28).Đức
Kitô đã chu toàn lề luật, rồi bằng cái chết và phục sinh, Ngài đã vượt qua lề
luật khiến lề luật không còn là một con đường cứu độ. Chúng ta cũng tuyên xưng
rằng các điều răn của Thiên Chúa vẫn giữ nguyên hiệu lực của chúng đối với những
người được công chính hóa, và bằng giáo huấn cũng như gương mẫu của mình, Đức
Kitô đã bày tỏ cho ta ý muốn của Thiên Chúa, làmchuẩn mực ứng xử cho những người
được công chính hóa.
32- Phía Luthertuyên bố rằng để hiểu ơn công chính hóa thì cần
phải phân biệt rõ ràng lề luật với Tin mừng và đặt cả hai vào đúng trật tự. Trong
cái nhìn thần học, lề luật vừa đòi hỏi ta vừa tố cáo tội lỗi. Sống ở đời, mỗi
người cũng như mỗi Kitô hữu trong thân phận là ngườicó tội, đều bị lề luật tố
giác vạch trần tội lỗi, để rồi, trong đức tin vào Tin mừng, họ sẽ hoàn toàn
hướng về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng duy nhất làm cho
họ nên công chính.
33- Thuở xưa lề luật đã là một con đường cứu độ nhưng rồi đã được
hoàn tất và vượt qua nhờ Tin mừng. Từ đó, người Công giáocó thể nói rằng Đức
Kitô không phải là nhà ban bố lề luật theo kiểu Môsê. Khi người Công giáo quả
quyết rằng người công chính buộc phải tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, thì
họ cũng không phủ nhận rằng Thiên Chúa đã xót thương hứa ban cho con cái Ngài
được ơn sự sống đời đời[18] nhờ
Đức Giêsu Kitô.[X. Các tài liệu nguồn, mục 4.5]
4.6. Được bảo đảm ơn cứu rỗi
34- Chúng ta cùng tuyên xưng rằng người tín hữu có thể trông cậy
vào lòng thương xót và các lời hứa của Thiên Chúa. Cho dù bản thân yếu đuối và gặp phảimuôn vànmối đe dọa đối
với đức tin, thì dựa vào sức mạnh cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, họvẫn có
thể tin cậy vào lời hứa hữu hiệu của ơn Thiên Chúa nơi Lời và Bí tích, và do
đónắm chắc mình sẽ được ơn này.
35- Người Cải cáchđặc biệt nhấn mạnh rằng khi gặp cám dỗ, người
tín hữu không được cậy dựa vào chính mình mà phải hoàn toàn cậy trông vào Đức
Kitô và tín thác nơi Ngài mà thôi. Tín thác vào lời hứa của Thiên Chúa, họ được
bảo đảm ơn cứu rỗi, còn nếu cậy dựa vào bản thân thì họ không bao giờ có được
sự bảo đảm ấy.
36- Người Công giáo có thể chia sẻ với người Cải Cách cùng một
mốibận tâm là phải đặt nền đức tin nơi thực tại khách quan là lời hứacủaĐức
Kitô, không dựa vào kinh nghiệm của chính mình, vàchỉ tin tưởng vào lời thứ tha
của Đức Kitô mà thôi (x. Mt 16,19; 18,18). Với Công đồng Vaticanô II, người Công
giáoquả quyết rằng: Tin có nghĩa là hoàn toàn phó thác chính mình cho Thiên
Chúa,[19]
Đấng giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết và đưa ta vào hưởng sự sống
đời đời[20].
Theo nghĩa ấy, con người không thể vừa tin tưởng vào Thiên Chúa nghi ngờ, cho
là lời hứa của Ngài không đáng tin cậy. Không ai được ngờ vực lòng thương xót
của Thiên Chúa và công nghiệp của Đức Kitô, dù rằng mỗi người có thể còn lo
lắng về phần rỗi của mình khi họ thấy mình yếu đuối và kém cỏi. Tuy nhiên chính
khi nhìn nhận mình thất bại, người tín hữu lại có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa
muốn cứu độ họ. [X. Các tài liệu nguồn, mục 4.6]
4.7- Những việc lành của người được công
chính hóa
37- Chúng ta cùng tuyên xưng rằng ơn công chính hóa sẽ làm phát
sinh các việc lànhnhư hoa trái, đem lại một đời sống Kitô hữu được sống trong đức
tin, đức cậy và đức mến. Khi người được ơn công chính hóa sống trong Đức Kitô
và hành động theo ân sủng nhận được thì, theo cách nói của Kinh thánh, họ trổ
sinh hoa trái tốt lành. Vì suốt cả đời người Kitô hữu phải chiến đấu với tội
lỗi , họcó nghĩa vụ phải làm cho ơn công chính hóa sinh hoa kết trái. Cả lời Chúa
Giêsu lẫn thư các Thánh Tông đồ đều khuyến dụ các Kitô hữu làm tròn công việc
của tình yêu thương như thế.
38- Theo cách hiểu của người Công giáo, các việc lành, được thực
hiện nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Linh, góp phần giúp ta lớn lên trong ân
sủng, nhờ đó bảo tồn được ơn công chính Thiên Chúa đã ban và tiến sâu vào sự
hiệp thông với Đức Kitô. Khi người Công giáo khẳng định rằng các việc lành “có
công phúc”, họ muốn nói rằng, theo chứng từ Kinh thánh, Chúa có hứa dành một phần
thưởng trên thiên đàng cho những việc làm ấy. Họ có ý nhấn mạnh đến trách nhiệm
của con người đối với hành động của mình, chứ không hề phản bác gì về sự kiện
các việc làm ấy vẫn lànhững ơn Chúa ban tặng, cũng không hề phủ nhận rằng ơn
công chính hóaluôn là món quà được ban không, không do công trạng của người ta.
39- Người Luther cũng đồng ý với quan niệm về một sự bảo tồn ân
sủng và sự tăng trưởng trong ân sủng và đức tin. Tuy nhiên họ nhấn mạnh rằng sự
công chính, tức là sự kiện ta được Thiên Chúa chấp nhận và đượcdự phần vào sự
công chính của Đức Kitôvẫn luôn trọn vẹn. Đồng thời, họ tuyên bố rằng các hiệu
quả từ đó có thể được tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu. Tuy nhiên, khi nhìn các
việc lành của người Kitô hữu như là “hoa trái” và “dấu chỉ” của ơn công chính
hóa chứ không phải là “công phúc” của riêng mình, họ cũng căn cứ trên Tân Ước
để hiểu sự sống đời đời là “phần thưởng”ban không,theo nghĩa là chỉ do Thiên
Chúa muốn giữ trọn lời Ngài hứa với những ai tin. [X. Các tài liệu nguồn, mục
4.7]
5. Ý nghĩa và tầm quan trọng của bản đồng thuận đạt được
40- Cách hiểu giáo lý về ơn công chính hóa được trình bày trong
Bản Tuyên bốnày cho thấy giữa người Luther và người Công giáo đã có một sự đồng
thuận trong cácchân lý căn bản về ơn công chính hóa. Dưới ánh sáng của sự đồng
thuận này, những khác biệt còn tồn đọng về ngôn ngữ, về cách diễn tả thần học,
và về sự nhấn mạnh trong cách hiểu về ơn công chính hóa được nêu ở các đoạn từ
18 đến 39 là những điều có thể chấp nhận được. Do đó, trong sự khác biệt của
mình, những giải thích về ơn công chính hóa của phía Luther và phía Công giáo
chỉ khai mở thêm cho nhau chứ không phá huỷ sự đồng thuận đã đạt được về các chân
lý căn bản.
41- Vì thế, những kết án giáo lý ở thế kỷ XVI, trong chừng mực
liên quan đến ơn công chính hóa, nay được thấy trong một ánh sáng mới: Giáo
huấn của các giáo hội Lutherđược trình bày trong Bản Tuyên bố này không còn nằm
trongnhững kết án của Công Đồng Trentô. Đồng thời, những kết án trong Các Điều Tuyên Tín Luther cũng không áp
dụng cho giáo huấn của Giáo hội Công giáo Rôma như được trình bày trong Bản
Tuyên bố này.
42- Như thế, không có gì làm mất đi tính cách nghiêm túc của những
kết án liên quan đến giáo lý về ơn công chính hóa. Một số những kết án ấy không
phải chỉ hoàn toàn vô nghĩa. Chúng vẫn là “những cảnh giác bổ ích” cho chúng ta
để chúng ta phải chú ý khi giảng dạy cũng như trong thực hành[21].
43- Sự đồng thuận của chúng ta về các chân lý căn bản của giáo lý
về ơn công chính hóa phải tác động trên đời sống cũng như cách giảng dạy của các
giáo hội chúng ta. Chính đời sống cũng như cách giảng dạy ấy minh chứng cho sự
đồng thuận. Về phương diện ấy, vẫn còn những vấn đề với tầm quan trọng khác
nhau cần phải được làm sáng tỏ hơn. Chẳng hạn, trong đó có những chủ đề như mối
tương quan giữa Lời Thiên Chúa và tín lý giáo hội, hay về giáo hội học, về
quyền bính giáo hội, sự hiệp nhất giáo hội, thừa tác vụ, các bí tích, và mối
liên hệ giữaơn công chính hóavà đạo đức xã hội. Chúng ta vững tin rằng sự đồng
thuận chúng ta đạt được đã đem lại một nền tảng vững chắc cho công việc làm
sáng tỏ này. Các giáo hội Luther và Giáo hội Công giáo Rôma sẽ cùng nhau tiếp
tục cố gắng đào sâu cách hiểuchung này về ơn công chính hóa, và làm cho cách
hiểu này trổ sinh hoa trái trong đời sống cũng như trong việc giảng dạy của các
giáo hội.
44- Chúng ta tạ ơn Chúa vì bước tiến quyết định này trên con đường
vượt qua sự chia rẽ giữa các giáo hội. Chúng ta cầu xin Thánh Linh dẫn chúng ta
tiến xa hơn nữa trên đường tiến tới sự hiệp nhất hữu hình theo ý muốn của Đức
Kitô.
PHỤ ĐÍNH
Các tài liệu nguồn cho bản tuyên bố chung vềgiáo lý về ơn công chính hóa
Ở phần 3 và 4 của
Tuyên bố chung có tham chiếu các tài liệu từ các cuộc đối thoại Luther Công
giáo. Đó là các tài liệu sau đây:
-
“Tất cả dưới một Đức Kitô”, Tuyên bố về Ausburg Confession, do Ủy ban hỗn hợp Luther-Công giáo quốc tế, 1980, trong: Growth in Agreement, do Harding Meyer và Lukas
Vischer chủ biên, New York/Ramsey, Geneva, 1984, tr. 241-247
-
Denzinger-Schönmetzer,tuyển tập tín liệu, ấn bản thứ
32-36.
-
Denzinger-Hünermann,tuyển tập tín liệu từ ấn bản thứ 37.
-
Đánh giá của Hội đồng Giáo hoàng Cổ Võ Sự Hiệp nhất Kitô giáo về
Nghiên cứu Lehrverurteilungen - kirchentrennend?, Vatican, 1992, tài liệu chưa xuất bản (PCPCU).
-
Ơn công chính hóa nhờ đức tin, Đối thoại Luther và Công giáo lần
VII, Minneapolis, 1985 (USA).
-
Bản ghi chép lập trường của
Ủy ban liên tịch của Giáo hội Luther Phúc âm Hiệp nhất của Đức và Ủy ban quốc gia Đức về LWF cứu xét tài liệu "Những bản án của thời Cải cách: Chúng
còn gây phân rẽ không?" trong:
Lehrverurteilungen im Gespräch, Göttingen, 1993 (VELKD).
-
Những bản án của thời Cải cách: Chúng còn gây phân rẽ không? Do Karl Lehmann và Wolfhart Pannenberg biên soạn, Minneapolis,
1990 (LV:E)
Số 3: Nhận Thức Chung Về Ơn
Công Chính Hóa(số 17 và 18) (LV:E 68; VELKD 95)
-
"Một bức tranh về ơn
công chính hóa đặt trọng tâm trên đức tin và được quan niệm theo nghĩa pháp lý
có tầm quan trọng chủ yếu đối với thánh Phaolô và theo một nghĩa, đối với toàn
bộ Kinh Thánh, mặt dầu đây không phải là cách duy nhất mà Kinh Thánh hay Phaolô
diễn tả công cuộc cứu độ của Thiên Chúa” (USA, no. 146).
-
"Người Công giáo
cũng như Luther có thể nhận ra nhu cầu phải xem xét các việc thực hành, các cơ
cấu, và các thần học của giáo hội theo mức độ chúng giúp hay ngăn cản “Việc
loan báo những lời hứa thương xót nhưng không của Thiên Chúa trong Đức Kitô
Giêsu vốn chỉ được đón nhận cách đúng đắn qua đức tin ( 28)" (USA, no.
153).
Về "Những khẳng định nền tảng" (USA, no. 157; x. 4):
- “Sự khẳng định này, giống như giáo lý của Cải
Cách về ơn công chính hóa chỉ nhờ đức tin, phục vụ như một tiêu chuẩn đánh giá
tất cả các giáo hội về việc thực hành, các cơ cấu và các truyền thống, bởi vì ứng
với nó là tiêu chuẩn ‘chỉ nhờ Đức Kitô’ (solus Christus). Chỉ mình Ngài được tin cậy như là đấng trung
gian duy nhất qua đó Thiên Chúa tuôn đổ ân sủng cứu độ trong Thánh Linh. Trong
cuộc đối thoại này, tất cả chúng ta khẳng định rằng mọi giáo huấn Kitô giáo,
các thực hành, và các chức vụ phải vận hành sao cho để thúc đẩy “sự vâng phục
của đức tin” (Rm 1,15) trong hành động cứu độ của Thiên Chúatrong một mình Đức
Kitô Giêsu nhờ Thánh Linh, vì phần rỗi của tín hữu và để tôn vinh Cha trên
trời” (ơn công chính hóa nhờ đức tin số 160; EO 2/2920).
- “Vì lý do đó, giáo lý về ơn công chính hóa- và
trên hết, nền tảng Kinh Thánh của nó - sẽ luôn luôn đóng vai trò đặc biệt trong
giáo hội. Vai trò đó là không ngừng thức tỉnh các Kitô hữu rằng mình, là tội
nhân, chỉ được sống nhờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa, tình thương mà chúng
ta chỉ cho phép được đổ tràn trên chúng ta, chứ chúng ta không tự mình đạt được
dù bằng cách nào, cũng không thể ràng buộc với bất cứ điều kiện tiên quyết hay
hậu quyết nào. Giáo lý về ơn công chính hóa vì thế trở thành tiêu chuẩn để thẩm
định ở mọi thời liệu một giải thích nào đó về tương quan của chúng ta với Thiên
Chúa có thể được gọi là giải thích của “Kitô giáo” hay không. Đồng thời, nó trở
thành tiêu chuẩn cho giáo hội để trắc nghiệm ở mọi thời liệu việc loan báo và
thực hành của giáo hội mình có tương ứng với những gì Chúa đã ban cho hay
không” (LV:E 69).
- Một sự đồng thuận trên sự kiện rằng giáo lý về
ơn công chính hóa có ý nghĩa không chỉ như là một giáo lý cấu thành trong toàn
bộ giáo huấn của giáo hội chúng ta, nhưng còn như tiêu chuẩn để kiểm nghiệm
toàn bộ giáo lý và việc thực hành của các giáo hội, điều này - theo quan điểm
của Luther - là sự tiến triển nền tảng trong công cuộc đối thoại đại kết giữa
các giáo hội chúng ta. Người ta không thể hân hoan cho đủ về nó”(VELKD 95,
20-26; x. 157).
- Đối với người Tin lành và Công giáo, giáo lý
về ơn công chính hóa có một vị thế khác nhau trong phẩm trật chân lý; nhưng cả
đôi bên đều đồng ý rằng giáo lý về ơn công chính hóa có vai trò đặc biệt trong
sự thật rằng nó là “tiêu chuẩn để trắc nghiệm ở mọi thời xem liệu một giải
thích riêng biệt về tương quan của chúng ta với Thiên Chúa có thể được gọi là
giải thích của “Kitô giáo” hay không. Đồng thời, nó trở thành tiểu chuẩn cho
giáo hội, trắc nghiệm ở mọi thời liệu việc loan báo và thực hành của giáo hội
mình có tương ứng với những gì Thiên Chúa đã ban cho hay không” (LV:E 69). Tầm
quan trọng mang tính tiêu chí luận lý của giáo lý về ơn công chính hóa đối với
bí tích học, giáo hội học, và các giáo huấn đạo đức còn phải được nghiên cứu xa
hơn” (PCPCU 96).
Số 4.1: Sự bất lực và tội lỗi của con người với ơn
công chính hóa (19-21) (x. LV:E 42;
46; VELKD 77-81; 83):
- Những người dưới ách tội lỗi không thể làm gì
để đáng hưởng ơn công chính hóa vốn là ơn ban tự do của Thiên Chúa. Thậm chí,
những khởi đầu của ơn công chính hóa, như sám hối, cầu xin ân sủng, và khao
khát ơn tha thứ, cũng chắc chắn là việc Thiên Chúa làm trong chúng ta” (USA,
no. 156.3).
- “Cả hai
đều quan tâm minh định rằng… con người không thể… bàng quan nhìn những công
chuyện của mình… Nhưng một sự hưởng ứng thì không phải là một “công việc”.
Chính sự hưởng ứng của đức tin cũng có được xuyên qua Lời hứa đến với con người
từ bên ngoài họ. Chỉ có thể “cộng tác” theo nghĩa rằng trong đức tin, con tim
can dự vào, khi Lời chạm tới nó và tạo ra đức tin” (LV:E
46f).
-Các điều khoản 4,5,6 và 9 của Công đồng Trento
cho thấy một sự khác biệt quan trọng về ơn công chính hóa chỉ khi giáo lý của
phía Luther về mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài trong sự kiện
công chính hóa khẳng quyết tác động duy nhứt của Thiên Chúa hay hiệu lực duy
nhứt của Đức Kitô đến mức không gán một vai trò thiết yếu nào cho sự tự do chấp
nhận ân sủng ấy của Thiên Chúa, sự chấp nhận mà chính nó cũng là ơn Thiên Chúa
ban. (PCPCU 22).
-Theo quan điểm Luther, việc nhấn mạnh tính cách
thụ động rõ ràng của con người liên quan tới ơn công chính hóa của họ không bao
giờ có nghĩa là phủ nhận sự tham gia trọn vẹn của cá nhân trong việc tin; đúng
hơn nó có ý loại trừ bất kỳ sự cộng tác nào trong chính sự kiện ơn công chính
hóa. Ơn công chính hóa là công trình của một mình Đức Kitô, công trình của ân
sủng mà thôi” (VELKD 84,3-8).
Số 4.2: Ơn công chính
hóaxét như sự tha thứ tội lỗi và làm cho nên công chính(đoạn 22-24) (USA, nos. 98-101; LV:E 47;
VELKD 84; x. trích dẫn 4.3)
- "Nhờ ơn công chính hóa, chúng ta vừa được tuyên bố vừa được làm cho nên công chính. Do đó, ơn
công chính hoá không phải là một điều tưởng tượng có tính pháp lý. Trong ơn công chính hóa, Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài hứa; Ngài tha tội và làm cho chúng ta
thực sự nên công chính” (USA, no. 156,5).
- “Thần học Tin Lành
không bỏ qua những gì giáo lý Công giáo nhấn mạnh, như: tính chất sáng tạo và
đổi mới của tình yêu Thiên Chúa; thần học ấy cũng không chủ trương… sự bất lực
của Thiên Chúa đối với tội lỗi vốn “duy chỉ” được tha thứ trong ơn công chính hóa, nhưng cái quyền lực chia cắt tội nhân với Thiên Chúa nơi tội lỗi ấy thì
không thực sự được xoá bỏ” (LV:E 49).
- “Giáo lý Luther chưa
bao giờ hiểu “sự tin cậy vào ơn công chính hóa của Đức Kitô’ như thể không tác động đến
đời sống người tín hữu, bởi vì Lời Đức Kitô hoàn tất những gì Ngài hứa. Theo
đó, giáo lý Luther hiểu ân sủng như là lòng tốt của Thiên Chúa, nhưng đó cũng
là sức mạnh hữu hiệu.. ‘vì nơi nào có sự tha tội, thì ở đó có sự sống và ơn cứu
độ’”(VELKD 86,15-23).
- “Giáo lý Công giáo
không bỏ qua những gì thần học Cải Cách nhấn mạnh: tính chất cá nhân của ân
sủng, và sự liên hệ của nó với Lời; cũng không chủ trương ân sủng như là vật sở
hữu khách quan (ngay cả dù là một vật sở hữu được trao ban) về phía con người –
một điều gì đó mà con người có thể định đoạt” (LV:E 49).
Số 4.3:Ơn công chính hoá
nhờ Đức Tin và xuyên qua Ân sủng (đoạn.25-27) (USA, nos. 105; LV:E 49-53; VELKD 87-90)
- “Nếu dịch từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác, ta ghi nhận khi Cải Cách nói về ơn công chính hóa nhờ đức tin thì tương ứng với người Công giáo nói về ơn công chính hóa nhờ ân sủng; và mặt khác, xét căn bản, giáo lý Cải Cách hiểu dưới một từ
“tin” những gì giáo lý Công giáo (theo 1 Cr 13, 13) tổng hợp thành bộ ba ‘tin,
cậy và mến’”(LV:E 52).
- “Chúng ta nhấn mạnh
rằng đức tin theo nghĩa mệnh lệnh đầu tiên luôn có nghĩa là yêu mến Thiên Chúa
và cậy trông vào Ngài và được diễn tả trong tình yêu thương tha nhân” (VELKD
89,8-11).
- “Người Công giáo cũng
như người Luther dạy rằng không có gì trổi vượt hơn quà tặng nhưng không là đức
tin đem lại ơn công chính hóa, và tất cả quà tặng cứu độ của Thiên Chúa
chỉ phát xuất từ Đức Kitô mà thôi” (USA, no. 105).
- “Những người Cải Cách
hiểu đức tin như là sự tha thứ và sự thông hiệp với Đức Kitô có được nhờ chính
lời hứa. Đây là nền tảng cho hiện hữu mới, qua đó thân xác chết đi cho tội và
con người mới trong đức Kitô được sống (sola
fide per Christum). Nhưng ngay cả khi đức tin là điều thiết yếu làm nên con
người mới, thì Kitô hữu đặt niềm tin tưởng của mình không phải trên sự sống mới
của mình, nhưng chỉ dựa vào lời hứa tốt lành của Thiên Chúa. Được chấp nhận
trong Đức Kitô là đủ, nếu ‘tin’ được hiểu như là ‘tín thác vào lời hứa’ (fides promissionis)” (LV:E 50).
- X. Công đồng Trento, Kỳ
6, Chương 7:
“Như vậy, trong quá
trình công chính hoá, cùng với sự tha thứ tội lỗi, con người nhận được đức tin,
đức cậy và đức ái, được phú bẩm cho đồng thời, nhờ Đức Giêsu Kitô là Đấng mà
con người được tháp nhập vào” (DH 1530).
- “Theo giải thích của
Cải Cách, đức tin vốn bám chặt một cách vô điều kiện vào lời hứa của Thiên Chúa
trong Lời và Bí tích là đủ cho sự công chính trước nhan Thiên Chúa, do đó việc
đổi mới đời sống con người, một điều khẩn thiết gắn với đức tin, thì tự nó
không đóng góp bất cứ điều gì vào ơn công chính hoá” (LV:E 52).
- “Những người Luther
chúng tôi chủ trương phân biệt giữa ơn công chính hóavà sự thánh hoá, giữa đức tin và các việc
làm, tuy nhiên điều đó không có nghĩa tách biệt chúng” (VELKD 89,6-8).
- “Giáo lý Công giáo hòa
nhịp với mối quan tâm của Cải Cách trong sự nhấn mạnh rằng việc đổi mới đời
sống con người không “đóng góp” thêm gì vào ơn công chính hóa, và dĩ nhiên đó không phải là một sự đóng góp để cho con người có thể tự
hào trước Thiên Chúa. Tuy nhiên, nó cảm thấy cần phải nhấn mạnh sự đổi mới đời
sống con người thông qua ơn công chính hóa, để nhận biết quyền năng sáng tạo
mới mẻ của Thiên Chúa; dù sự đổi mới này
trong đức tin, đức cậy và đức mến dĩ nhiên chẳng là gì ngoài một sự hưởng ứng
đối với ân sủng khôn tả của Thiên Chúa” (LV:E 52f).
- “Trong mức độ mà giáo
lý Công giáo nhấn mạnh rằng ân sủng mang tính cá nhân và được liên kết với Lời,
rằng sự đổi mới rõ ràng chỉ là một sự hưởng ứng cũng do chính Lời Thiên Chúa
tác động, và rằng sự đổi mới đời sống con người không đóng góp vào ơn công chính hóa, và dĩ nhiên không phải là một sự đóng góp để con người có thể tự hào
trước Thiên Chúa, thì sự phản đối của chúng tôi không còn áp dụng nữa. (VELKD
89,12-21).
Số 4.4: Người Được Công
Chính Hoá xét như Là Tội Nhân (đoạn 28-30) (USA, nos.102; LV:E 44; VELKD 81)
- “Vì dù công chính và
thánh thiện bao nhiêu đi nữa, họ cũng đôi khi sa ngã vào tội lỗi vốn là thực
tại mỗi ngày.
Hơn nữa, hoạt động của
Thánh Linh không miễn chuẩn cho các tín hữu khỏi cuộc chiến đấu suốt đời chống
lại các khuynh hướng tội lỗi. Dục vọng và các hệ lụy khác của nguyên tội và tội
cá nhân, theo giáo lý Công giáo, vẫn ở trong con người được ơn công chính hóa, do đó họ phải cầu xin Thiên Chúa tha thứ hàng ngày. (USA, no. 102).
- “Những giáo lý được
đưa ra bởi Công đồng Trento và bởi phía Cải Cách vẫn đồng thanh chủ trương rằng
nguyên tội, và dục vọng vẫn còn đó, là điều trái nghịch với Thiên Chúa, và là
đối tượng cho cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi suốt đời… Sau phép thánh tẩy,
dục vọng trong con người được công chính hoá ấy không còn chia cắt người đó
khỏi Thiên Chúa; nói theo ngôn ngữ Công đồng Trento, nó ‘không còn là tội theo
nghĩa thực của nó;’ nói theo cách diễn đạt của Luther, nó là “tội đã bị khống
chế” (peccatum regnatum)" (LV:E
46).
- Vấn đề ở đây, đó là
làm thế nào để nói về tội liên quan đến người được công chính hoá mà không hạn
chế thực tại ơn cứu độ. Trong khi những người Luther diễn tả sự căng thẳng này
với thuật ngữ ‘tội đã bị khống chế’, điều diễn đạt giáo huấn về người Kitô hữu
như là “người được công chính hóa và đồng thời là tội nhân” (simul iustus et peccator), thì những
người Công giáo Rôma nghĩ thực tại ơn cứu độ chỉ có thể được giữ gìn bằng cách
phủ nhận tính chất tội lỗi của dục vọng. Liên quan đến vấn đề này, một sự hàn
gắn đáng kể đạt được khi LV:E gọi dục vọng vẫn còn nơi người được công chính
hoá là ‘phản nghịch Thiên Chúa’ và do đó nó được xem như là tội lỗi” (VELKD
82,29-39).
Số 4.5: Lề Luật và Tin
mừng(đoạn. 31-33)
- Theo giáo huấn của
Phaolô, chủ đề này liên hệ tới luật Do thái xét như là phương tiện của ơn cứu
rỗi. Luật này đã được hoàn thành và vượt qua nơi Đức Kitô. Bản tuyên bố này và
những hệ quả từ đó phải được hiểu trên nền tảng này.
- Với tham chiếu đến các
điều khoản 19 trở đi của Công đồng Trento, VELKD (89,28-36) nói như sau:
“Tất nhiên, mười điều
răn áp dụng cho các Kitô hữu như được tuyên bố ở nhiều chỗ trong các bản Tuyên
Tín… Nếu điều khoản 20 nhấn mạnh rằng người ta … bị buộc phải giữ các điều Răn
của Thiên Chúa, thì điều khoản này không chạm đến chúng ta; tuy nhiên, nếu điều
khoản 20 khẳng định rằng đức tin có quyền lực cứu độ chỉ với điều kiện tuân giữ
các điều Răn, thì điều này áp dụng cho chúng ta. Về sự tham chiếu điều khoản
liên quan đến các điều răn của Giáo hội, không có sự khác biệt giữa chúng ta
nếu những điều răn này chỉ diễn giải những điều Răn của Chúa; nếu không thì nó
sẽ gán cho chúng ta”.
- Đoạn cuối cùng liên hệ
một cách thật sự tới điểm 4.3, nhưng nhấn mạnh “vai trò kết án” của luật vốn
rất quan trọng đối với tư tưởng người Luther.
Số 4.6: Bảo đảm ơn cứu độ (đoạn 34-36) (LV:E 53-56; VELKD 90).
- “Câu hỏi là: Bằng cách
nào có thể sống trước nhan Chúa, và bao nhiêu người có thể sống như thế bất
chấp sự yếu đuối của họ, và với sự yếu đuối đó?” (LV:E 53).
- “Nền tảng và điểm xuất
phát (của những người Cải Cách là)… sự đáng tin cậy và sự đầy đủ của lời Thiên
Chúa hứa, và sức mạnh của cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô; sự yếu đuối
của con người, và mối đe dọa đối với đức tin và ơn cứu độ gắn với sự yếu đuối
ấy” (LV:E 56).
- Công đồng Trento cũng
nhấn mạnh rằng “cần phải tin rằng tội lỗi không được tha thứ, cũng như đã chưa
bao giờ được tha thứ, nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa ban cách tự
do qua công nghiệp Đức Kitô”, và rằng chúng ta không được nghi ngờ “lòng thương
xót của Thiên Chúa, công nghiệp của Đức Kitô và sức mạnh cùng hiệu quả của các
bí tích; như vậy, bất cứ ai cũng có thể lo sợ về tình trạng ân sủng của mình,
khi nhìn lại mình và sự yếu đuối của mình, cùng tình trạng thiếu sự sẵn sàng
của mình.” (Công đồng Trento, phiên 6, chương 9 DH 1534).
- Luther và các môn đệ
đi một bước xa hơn. Họ nhấn mạnh rằng không nên chỉ chịu đựng tình trạng không
chắc chắn. Chúng ta nên phớt lờ nó đi và một cách nghiêm túc, thực tiễn, cá vị,
ta để tâm tới hiệu quả khách quan của lời xá tội được nói lên trong bí tích xá
giải, vốn đến từ “bên ngoài”… Vì Đức Giêsu đã nói: “Dưới đất anh em tháo cởi
điều gì thì trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16,19), người tín hữu… sẽ
tuyên bố Đức Kitô là một kẻ nói dối… nếu người ấy không vững chắc cậy dựa vào
sự tha thứ của Thiên Chúa được loan báo trong lời xá giải… Sự tin cậy này tự nó
có thể không chắc chắn về mặt chủ quan - rằng sự bảo đảm ơn tha thứ không phải
là một sự chắc chắn về ơn tha thứ; nhưng điều này không được biến thành một vấn
đề khác, đó là: người tín hữu nên phớt lơ đi và chỉ cậy dựa vào lời hứa tha thứ
của Đức Kitô mà thôi” (LV:E 53).
- “Ngày nay người Công
giáo có thể trân trọng những cố gắng của những người Cải Cách trong việc đặt
nền đức tin trên thực tại khách quan là lời hứa của Đức Kitô, ‘những gì anh em
tháo cởi dưới đất…’ và trong việc hướng các tín hữu tập chú vào lời xá tội … Mối
quan tâm ban đầu của Luther nhằm dạy người ta vượt khỏi kinh nghiệm của mình,
và chỉ trông cậy vào Đức Kitô cùng với lời tha tội của Ngài (thì không bị kết
án)” (PCPCU 24).
- Việc kết án lẫn nhau
liên quan đến cách hiểu về sự bảo đảm của ơn cứu độ “có thể càng bớt tạo cớ cho
sự phản đối lẫn nhau ngày nay – nhất là khi chúng ta bắt đầu từ nền tảng của
một quan niệm đức tin được đổi mới dựa trên Kinh Thánh. Vì một người có thể
chắc chắn đánh mất hoặc chối bỏ đức tin, và tự ràng buộc mình với Thiên Chúa cùng
với lời hứa của Ngài. Nhưng nếu người đó tin theo nghĩa này, thì người ấy không
thể đồng thời tin rằng Thiên Chúa không đáng tin cậy trong lời ngài hứa. Theo
nghĩa này, trong cách nói của Luther, cả ngày nay cũng đúng rằng đức tin là sự
bảo đảm cho ơn cứu độ” (LV:E 56).
- Về quan niệm đức tin
của Vatican II, hãy xem Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Thánh, số 5: “Sự vâng phục
của đức tin… phải được trao cho Thiên Chúa là Đấng mạc khải. Nhờ sự vâng phục
đó, con người tự nguyện phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, dâng hiến sự quy
phục hoàn toàn của lý trí và ý chí cho Thiên Chúa là Đấng mạc khải, và tự do
đón nhận sự thật được mạc khải bởi Ngài”.
“Sự phân biệt của Luther
giữa một bên là sự chắc chắn (certitudo) của đức tin vốn chỉ cậy dựa vào Đức
Kitô, và bên kia là sự an toàn phàm trần (securitas) vốn dựa vào con người, đã
không được trình bày đủ sáng tỏ trong LV. Câu hỏi liệu một người Kitô hữu ‘đã
tin đầy đủ và trọn vẹn hay chưa’ (LV:E 53) không nảy sinh trong nhận thức của
Luther, vì đức tin không bao giờ phản chiếu chính nó, nhưng tùy thuộc hoàn toàn
vào Thiên Chúa Đấng ban ơn qua Lời và bí tích từ bên ngoài chúng ta” (VELKD
92,2-9).
Số 4.7:ViệcLành Của Người Được Công Chính Hóa (đoạn 37-39) (LV:E 66, VELKD 90).
- “Nhưng Công đồng loại
trừ khả năng đạt được ân sủng - tức là ơn công chính hóa (điều 2; DS 1552) và
đặt nền tảng sự đạt được này hay sự xứng đáng được sự sống đời đời trên chính
ân ban, xuyên qua sự tháp nhập vào Đức Kitô (điều 32, DS 1582). Những việc lành
là những ‘công đức’ xét như một ân ban. Mặc dù những người Cải Cách công kích
sự cậy dựa vào các việc làm của chính mình, Công Đồng vẫn minh nhiên loại trừ
mọi ý niệm về một sự tự hào nào đó hay bất kỳ sự chắc chắn giả tạo nào đó (chương
16: DS 1548). Rõ ràng, … Công đồng mong muốn thiết lập một nối kết với thánh
Augustin, là người đã giới thiệu ý niệm công đức, để diễn tả trách nhiệm của
con người, bất chấp đặc tính ‘được ban cho’ của các việc lành” (LV:E 66).
- Nếu chúng ta hiểu ngôn
ngữ về ‘nguyên nhân’ ở điều 24 như một cách nói có tính cá nhân hơn, giống như
trường hợp ở chương XVI của Sắc Lệnh về Ơn Công Chính Hóa, trong đó ý tưởng về
hiệp thông với Đức Kitô là nền tảng, thì chúng ta có thể miêu tả giáo lý Công
giáo về công đức như đã được nói trong câu đầu tiên của đoạn thứ hai, mục 4.7:
Sự lớn lên trong ân sủng, kiên định trong sự công chính được đón nhận từ Thiên
Chúa, và một mối hiệp thông sâu xa hơn với Đức Kitô.
- “Rất nhiều phản đề có
thể được vượt qua nếu cái từ ‘công đức’ gây hiểu lầm được nhìn và nghĩ hoàn
toàn trong nối kết với ý nghĩa thực sự của thuật ngữ ‘lương bổng’ hay ‘phần
thưởng’ trong Kinh Thánh (LV: E 67).
- “Các Tuyên Tín của
Luther nhấn mạnh rằng người được công chính hóa có trách nhiệm không để mất ân
sủng đã lãnh nhận nhưng phải sống trong đó…Như vậy các Tuyên Tín có thể nói về
một sự bảo tồn ân sủng và sự lớn lên trong ân sủng. Nếu sự công chính ở điều 24
được hiểu theo nghĩa rằng nó ảnh hưởng trên con người, thì nó không chạm tới chúng
ta. Nhưng nếu sự công chính ở điều 24 muốn nói đến việc người Kitô hữu được
Thiên Chúa chấp nhận, thì nó chạm tới chúng ta; vì sự công chính này luôn luôn
hoàn hảo; đối chiếu với những việc làm của các Kitô hữu vốn chỉ là những ‘hoa
trái’ và ‘dấu chỉ’” (VELKD 94,2-14).
“Liên quan tới điều 26,
chúng ta tham chiếu Hộ giáo, trong đó đời sống vĩnh cửu được miêu tả như là
phần thưởng: ‘…Chúng ta chấp nhận rằng sự sống đời đời là một phần thưởng, bởi
vì đó là một cái gì ta được ban tặng - không vì công trạng của chúng ta nhưng
chỉ vì lời hứa” (VELKD 94,20-24).
Đình Chẩn & Tú Ân chuyển ngữ
[2]Rector et judex super
omnia genera doctrinarum’ Weimar ấn bản
tác phẩm trọn bộ của Luther [WA], 39, I, 205
[3]Cần ghi nhớ rằng một vài giáo hội Luther chỉ coi Bản Tuyên tín Augsburg và Giáo
lý nhỏ của Luthernhư làtham chiếu giáo lý có uy tín của họ. Những bản văn
này không chứa đựng những kết án về ơn công chính trong tương quan với Giáo Hội
Công Giáo Rôma.
[4]Báo cáo của Ủy ban nghiên cứu chung Luther và Công giáo, Lớn lên trong đồng thuận (New York;
Geneva, 1984), pp. 168-189.
[5] Xuất bản bởi Liên hiệp Luther thế giới (Geneva, 1994).
[8] Theo quan điểm chung của Hội đồng Arnoldshain của Giáo hội
Tin lành Luther hiệp nhất ở Đức và Ủy ban quốc gia Đức về Liên hiệp Luther thế
giới, trong tác phẩm Ökumenische Rundschau 44 (1995). Xem thêm Lehrverurteilungen im Gespräch. Die ersten
offiziellen Stellungsnahmen aus den evangelischen Kirchen in Deutschland, Göttingen 1993.
[9] Từ “giáo hội” được dùng trong bản Tuyên bố này phản ánh những cách
tự hiểu ngầm về các giáo hội tham gia, nó không có ý giải quyết mọi vấn đề giáo
hội học liên quan tới hạn từ này.
[10] x. “Bản báo cáo Malta” đoạn 26-30; Ơn công
chính hóa bởi đức tin, đoạn 122-147.
Theo yêu cầu của Đối thoại bên Mỹ về ơn công chính hóa, các bản văn tân
ước không thuộc Phaolô được phân tích trong khuân khổ cuộc đối thoại ở Mỹ nhờ
J. Reumann, với những câu trả lời của Joseph A. Fitzmyer và Jerome D.
Quinn (Philadelphia; New York:1982), trang 124-180. Kết quả của công trình
nghiên cứu này được tóm trong báo cáo đối thoại về ơn công chính hóa bởi đức
tin trong các đoạn 139-142.
[11]“Tất cả
dưới một Đức Kitô” đoạn 14,
trong tác phẩm Lớn lên trong Đồng Thuận
(Growth in Agreement), 241-247
[12]x. WA 8:106; American Edition 32:227
[14]x. DS 1530.
[15]x. Hộ Giáo II:38-45; Book of Concord, 105.
[16]x. DS 1515.
[17]x. DS 1515.
[18]x. DS 1545.
[19]x. DV 5.
[20]x. DV 5.
[21]Những bản án thời Cải Cách, 27.