Trích đoạn bài thơ Ave Maria (Thánh Nữ Đồng Trinh Maria) |
Trường ca Hàn Mạc Tử của Phạm Duy được kết bằng một ca khúc vút bay từ cảm hứng “thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu” trong bài Thánh Nữ Đồng Trinh Maria:
Phượng
Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ
tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn
tôi bay đến bao giờ mới đậu
Nguyễn Bá Tín trong
“Hàn Mạc Tử Anh Tôi” đã cho biết xuất xứ và ý nghĩa của tiếng kêu Phượng Trì:
“Hôm ấy hai anh em
chúng tôi đi xem một cuốn phim Tàu “Hỏa Thiêu Lầu Liên Tự. Nội dung là một câu
chuyện kiếm hiệp được dựng nên trong bối cảnh vua Càn Long lợi dụng các môn
phái võ hiệp để đánh phá ngôi chùa Hồng Liên, một cứ điểm quan trọng nhằm chống
lại triều đình Mãn Thanh thời bấy giờ. Xong trận chiến, Cam Phượng Trì, người
anh hùng lỗi lạc phái Nga Mi lên đỉnh núi cao, nhìn xuống chiêm ngưỡng chiến
công đã đạt. Anh rùng mình khi thấy bao bạn bè anh bị tàn sát. Buồn rầu, anh
quay gót phi thân lên ngọn núi, lấy đà, dùng thuật phi hành bay mãi lên cao cho
đến khi mất dạng.
Một nữ hiệp là Diệp
Tiểu Thanh, vốn yêu mến anh chạy theo tìm. Tiếng nàng gọi: Phượng Trì, Phượng
Trì... Phượng Trì, Phượng Trì... vang dội khắp nơi mà con phượng hoàng vĩ đại
đó không quay trở lại. Hai tiếng “Phượng Trì” ám ảnh anh Trí một cách kì lạ say
đắm đến nỗi đêm sau anh đi một mình xem chiếu lại, anh suýt soa khen ngợi liền
mấy hôm. Anh nói: Phượng Trì, cái tên thật tuyệt, nghe như bay lên cao, bay lên
cao, hay quá!” (trang 78-79).
“Anh có vẻ rất
thích chí khi tìm được hai chữ “Phượng Trì”... lại rất gần gũi với biểu tượng
phượng hoàng của anh” (trang 80):
Nhớ
khi xưa ta là chim phượng hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng
trời cao ngất.
Beethoven đã chữa
bệnh bằng nhạc cho chính đời mình, biểu trưng qua bản hòa tấu số 6 với tựa đề
là “Mục Đồng”. Đang gặp chuyện buồn mà nghe bản Mục Đồng là tự nhiên thấy lòng
mình thảnh thơi hẳn ra. Hãy nhập thân làm một mục đồng dẫn đàn chiên ra cánh
đồng cỏ, có suối chảy róc rách, tâm hồn thanh thản đầy nhựa sống, bạn bè nhởn
nhơ vui vẻ. Dòng nhạc đoạn này thật nhẹ, êm như mây trời, đẹp như bờ hoa dại
bên đường.
Nhưng bỗng chốc cơn
mây đen ùa tới phủ kín ngột ngạt. Sấm chớp hãi hùng. Tiếng nhạc giật đùng đùng
gây ấn tượng sợ hãi như đang bị vất vào cơn giông bão khủng khiếp hết đường
thoát.
Vậy mà ở đoạn cuối
nhạc lại diễn lên một cảnh thật ngạc nhiên. Bão tự nhiên hết, người mục tử hoàn
hồn reo vui ca khúc tạ ơn, như thấy lòng mình mọc cánh bay lên một khung trời
mới rộng mở thênh thang.
Thì ra nghệ sĩ là người nhìn thấy diễn tiến ba nhịp trong một vũ khúc cuộc đời. Diễn tiến này khoa chữa bệnh tâm thần cũng đã khám phá ra. Bệnh nhân phải được hướng dẫn “nhớ” lại những lúc sung sướng được ấp ủ yêu thương trong đời mình. Rồi qua giai đoạn hai khó khăn hơn, là phải nhận diện và vật lộn với điều khổ tâm vốn cố tìm cách quên đi. Và giai đoạn cuối cùng là có thể “làm hòa” lại với những đau khổ đó. Qui trình này nhà tâm lý có thế giá bậc nhất thời đại là Karl Jung gọi là “Individuation”, dịch thoát theo từ của Tagore là “thực hiện toàn mãn”.
Hàn Mạc Tử lại là
chính hiện thân của diễn tiến cuộc vũ hóa xem ra rất mâu thuẫn này: từ những êm
đềm thơ đẹp đến những vật vã cô đơn bệnh cùi, rồi được ơn tác động tìm lại niềm
vui như mọc cánh thênh thang, không gì cản trở mình được nữa. Đó là tiến trình
mọc lông vũ, mọc cánh.
Vậy thì đây cũng là
con đường Việt Nam. Bầm dập khổ lụy chẳng sao hiểu nổi. Nhưng chỉ biết chắc một
điều: có một Việt Nam khổ nạn, thì sẽ có một Việt Nam phục sinh, trong một diễn
trình lớn hơn. Có một người cùi Hàn Mạc Tử, thì cũng có một thiên tài Hàn Mạc
Tử. Đó là mầu nhiệm cuộc sống: cơn khổ nạn sinh thành.
3. Lực vũ hóa
Trường ca Hàn Mạc
Tử là một khúc vũ với tiến trình mọc cánh bay lên, hóa giải mọi oan khiên. Đúng
là Đường Vượt. Việt có nghĩa là Vượt. Vậy thì trường ca này phải là một Việt
Đạo Ca, khúc hát trên Đường Vượt, điệu hò vượt đồi vượt nương những khổ lụy
trong cuộc sống, mà cuối cùng là cái chết “đi vào ngàn mai” khi “nghe vang
tiếng gọi càn khôn”. Vượt qua bờ hữu hạn sang bờ vô hạn, vượt bờ sinh tử, tử
sinh, vượt qua cái tôi nhỏ bé mà vươn tới hòa nhập vào cái “ta” đại thể. Phương
thức vượt cần đến cánh chim thiêng. Ngàn mai nào? Tiếng gọi càn khôn nào? Có
phải chỉ là một lực hút vũ trụ để tan loãng vào cõi mông lung mờ mịt đáng sợ
đến lạnh người, hay là cảm nghiệm được chính Thiên Chúa “Tình Yêu rung động lớp
hào quang” như Hàn Mạc Tử đã thấy?
Đau khổ vốn gắn
liền với kiếp người như một định mệnh. Có những đau khổ giải quyết được, có
những đau khổ không thể giải quyết được. Đau khổ là một phi lí đối với những ai
chạy trốn nó. Đau khổ lại là một mầu nhiệm mang ý nghĩa trong tiến trình chung
đối với những người có con mắt để mà thấy như Hàn Mạc Tử. Mọi người cũng như
Nguyễn Du với khúc Đoạn Trường, dù có “Tân Thanh” hay “Vô Thanh” đều phải nhận:
Thảo
nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc bưng
đầu mà ra!
Nơi Hàn Mạc Tử, việc hóa giải thật lạ lùng: được biến đổi do thần lực Tình Yêu mà cũng là cứu cánh cuộc đời. Một khi đã cảm nghiệm thấy Chúa Tình Yêu, thì lạ quá: “mọi cù lao trôi nổi xứ mêng mông, sẽ qui tụ thâu về trong một mối”. Thì ra tình yêu mới là lực vũ hóa, mới là yếu tố then chốt trong lộ trình hóa giải của Hàn Mạc Tử. Tình yêu là thuốc thần và là năng lực thật theo khoa học ngày nay, như Teilhard de Chardin, một nhà thần học mà cũng là một nhà khoa học, đã chứng nghiệm sức mạnh lạ lùng ấy:
“Một ngày kia, sau
khi chúng ta đã làm chủ được gió, sóng biển,
thủy triều, và trọng lực, chúng ta sẽ khai mở được năng lực của tình yêu; và
khi đó, đúng là lần thứ hai con người khám phá ra lửa”.
Con đường vượt này
không còn do sức riêng nhỏ bé của mình được nữa, cũng không do bất cứ suy tưởng
của đạo này đạo kia do loài người tìm ra, mà phải do chính “nguồn thiêng liêng
yêu chuộng”; sức mạnh tình yêu của Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống”
(Ga 14,6).
Lửa tình yêu đã
biến đổi Hàn Mạc Tử, đã làm cho Hàn Mạc Tử mọc cánh là chim phượng hoàng theo
đúng nghĩa. Đó là một thực chứng. Tình yêu đó được biểu hiện qua Đức Mẹ luôn
sẵn sàng cứu giúp khi gặp nguy khó:
Maria,
linh hồn tôi ớn lạnh
Run
như run thần tử thấy long nhan
Run
như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng
lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy
Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu
nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho
tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn
lâm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng
đôi dòng lệ.
Trong “Hàn Mạc Tử Anh Tôi”, Nguyễn Bá Tín đã cho biết lý do những thay đổi lạ lùng chứa chất nhiều bí ẩn nơi Hàn Mạc Tử:
“Anh Trí là một
người bình thường như mọi người, đôi khi còn tầm thường trong những cơn “hỉ,
nộ, ái, ố, lạc” trong cuộc đời. Thế nhưng cái gì đã xảy đến, biến đổi anh trở
thành khó hiểu như vậy?
Tôi đã từng theo dõi những ham mê, những diễn tiến tâm trạng, những thay đổi tính tình, trong những năm ở gần anh, nên không thể không xem đó là một điều lạ lùng. Theo tôi, biến cố anh suýt chết đuối ở bờ biển Quy Nhơn là yếu tố quyết định cuộc thay đổi ấy. Mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn còn sợ hãi vì thấy anh không còn giống anh nữa, anh khác lạ đi với đôi mắt lạc thần. Cảnh tượng đó ám ảnh tôi mãi. Tôi tin anh đã được ơn cứu trợ lạ lùng của Đức Mẹ, và biến cố trên đã ảnh hưởng sâu đậm đến đường hướng sáng tác của anh”.
"Tôi tin anh đã được ơn cứu trợ lạ lùng của Đức Mẹ, và biến cố trên đã ảnh hưởng sâu đậm đến đường hướng sáng tác của anh" |
“Khả năng cảm thụ
tế nhị trong văn chương, trong âm nhạc đều bắt đầu từ đó, từ lúc anh sống thu
hình lại cả tâm hồn lẫn thể xác ngược với những ham muốn dồi dào đã có sẵn từ
bẩm sinh. Đang bồng bột nông nổi đầy sức sống, đi từ ham mê này đến ham mê kia,
bỗng đột nhiên anh dừng lại, rồi chìm vào một trạng thái đăm chiêu đến xuất
thần. Hiện tượng đó đã đến với anh một cách thình lình, như chớp lòa sáng chói,
khiến anh ngất đi, ngơ ngác mù mịt, để rồi biến cải anh hoàn toàn” (trang
113-114).
Tìm đường vượt, hóa
giải oan khiên..., Phạm Duy đã từ đạo ca vượt tới thiền ca. Rồi từ thiền ca
vượt tới Trường ca Hàn Mạc Tử, hát thánh ca trên đường về cõi ánh sáng muôn
năm. Ông Trần Văn Ân đã nhận xét về tác phẩm này: “Phạm Duy đã vượt Phạm Duy về
mọi mặt, nội dung, chủ đề, hình thức, nhạc thuật. Trường ca Hàn Mạc Tử là biểu
kiến của Phạm Duy về cuộc đời, về đất nước, về tình yêu, về con người và về
Thượng Đế. Nó là một lựa chọn phù hợp nhất, mãnh liệt nhất. Phạm Duy mượn Hàn
Mạc Tử để nói lên cái đau khổ tột cùng của một kiếp người... mà chỉ có Đạo, chỉ
có Thượng Đế mới cứu rỗi được thôi”. “Vào lúc xế chiều của cuộc đời, Phạm Duy
mới dành cả một trường ca để xưng tụng một thi sĩ lỗi lạc, đồng thời cũng là để
vinh danh Thiên Chúa. Như vậy là con người nghệ sĩ mà ai cũng tưởng là vô đạo,
đã từng vào nhạc với tiếng chuông chùa, nay lại muốn đóng lại sự nghiệp của
mình bằng tiếng chuông nhà thờ và bằng những lời ca vinh danh Đức Mẹ Maria”
(Người Việt ngày 7 tháng 12-1993).
Đối với nhạc sĩ
Phạm Duy, thì hình ảnh Đức Maria “Bà rất nhiều phép lạ” thật dễ cảm và thật gần
gũi.
Người ngoại quốc
thường nhận rằng người Việt mình có lòng sùng kính Đức Mẹ Maria một cách đặc
biệt, có thể vì trong tiềm thức đã có sẵn hình ảnh chim Âu tổ mẫu bay suốt dọc
dài lịch sử. Đức Maria là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa, là hiện thân nguồn
“ánh sáng muôn năm”, là chim tiên, chim “Phượng Trì” theo ngôn ngữ riêng của
Hàn Mạc Tử trong hình ảnh Đức Mẹ Bay Lên Trời.
Ba bài cuối của
Trường Ca Hàn Mạc Tử là những khúc “nhạc thiêng liêng” nâng hồn những đứa con
được “no rồi ơn vũ lộ hòa chan”, thành “thánh thể kết tinh”, có thể vượt thoát
vòng hệ lụy nghiệt ngã mà bay bổng vào cõi “ngời chói vạn hào quang”:
Sáng
vô cùng, sáng láng cả mọi miền
Không
u tối như cõi lòng ma quỉ
Vì
có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị
Nhạc thiêng liêng dồn
trổi khắp u linh.
Trong “Hàn Mạc Tử
Anh Tôi”, Ông Nguyễn Bá Tín đã nhận ra nguồn cảm hứng của anh mình phát sinh từ
lòng Đức Maria là chính Ngôi Hai Thiên Chúa ra đời:
Hỡi
sứ thần Thiên Chúa Gabriel
Khi
Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người
có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người
có nghe náo động cả muôn trời?
Người
có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để
ca tụng bằng hương hoa sáng láng
Bằng
tràng hạt bằng sao mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi
anh linh.
“Anh nguyện được
tâm tư trong sáng để lời thơ biến thành “muôn kinh trọng thể”:
Đây
rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ
cầu nguyện là thơ quân tử ý
...
.
Tấu
lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho
tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm
Thơ
trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn,
trong mạch máu.
Ave Maria! Reo như châu ngọc, thơm tho như hoa hương, sáng láng
như thất bảo, làm xôn xao tinh tú, náo động muôn trời và vạn vật. Ave Maria!
Nguồn vô tận mà “Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu”. Chưa bao giờ anh biểu lộ
được hết tiên phong đạo cốt như trong bài Ave Maria. Anh nói đó là bài
thơ đắc ý nhất trong cuộc đời anh” (trang 83).
Ước vọng bay vượt
thoát lên khỏi hiện trạng nghiệt ngã vốn nằm trong tiềm thức chung của nhân
loại. Ai mà chẳng một lần mơ thấy mình đang bay. Đặc biệt hình ảnh này nằm
trong máu người Việt với truyện thiêng chim Tiên đẻ ra một trăm trứng nở ra một
đàn chim con. Mẹ là chim thì các con cũng là chim. Những đứa con này cũng tập
bay theo mẹ lên núi, mà đứa con điển hình là chú bé làng Phù Đổng bay lên núi
Sóc Sơn.
Tín điều Đức Mẹ hồn
xác Lên Trời với lễ mừng ngày 15 tháng 8 là một tôn vinh cao độ đối với Đức
Maria từ thân xác con người hữu hạn có thể vươn lên vô hạn. Đó cũng là lễ xác
quyết phẩm giá con người vốn có thể bay lên như chim phượng là một biểu tượng,
mà khoa uyên tâm học ngày nay đang tìm cách khai triển. Đây mới là nhân bản
đúng nghĩa, chứ sao lại đi phân thây uống máu nhau để bắt cho bằng được nhận
mình là con vật tranh mồi: “người là con vật kinh tế!”
Lòng sùng kính Đức
Mẹ trong nghĩa này cũng chính là lòng xác quyết về chính mình (self-image).
Lòng sùng kính Đức Mẹ là một trong những nét nổi nhất của truyền thống Công
giáo Việt Nam, qua chứng tích của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam với thánh Dũng Lạc
là con chim đầu đàn. Không vị nào mà không được nhắc đến việc cầm tràng chuỗi
trong tay trong nhà tù cũng như khi ra pháp trường. Vì chắc chắn:
Đây
rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ
quân tử ý.
như Hàn Mạc Tử cảm
nghiệm, làm phương cách giúp mọc cánh bay lên được theo chim mẹ.
Thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: “Đức Mẹ chẳng có thể chuộc tội cho ta được, song những ơn Chúa ban cho ta thì lại qua tay Đức Mẹ... Ai kính mến Đức Mẹ thật lòng thì Đức Mẹ sẽ mở lòng cho người ấy kính mến Đức Chúa Trời nữa”.
Thi hào Eliot đã để
đời một lời thơ: “Ở cuối lộ trình, con người khám phá ra chỗ khởi đầu”.
Lộ trình vũ hóa của Trường Ca Hàn Mạc Tử không phải là một thứ thuốc mê an thần cho quên đi đau khổ của mình và trốn thoát trách nhiệm liên đới đồng loại, nhưng là mở ra một cuộc hành trình mới, bước vào cuộc sống với con mắt được khai mở: bỗng thấy Chúa hiện diện yêu thương qua mọi bước chân như hai môn đệ trên đường Emmaus. Ngài cũng đã và đang đi những bước như vậy trong cuộc sống mỗi người: “Đức Kitô đã chẳng phải trải qua như vậy rồi mới được vinh quang sao?” (Luca 24, 26). Mắt sáng lên hân hoan, trở lại báo tin mừng cho anh em mình: “Thầy đã sống lại và đang ở giữa chúng ta”. Bằng con mắt nghệ sĩ đích thực, bằng con mắt đức tin, bằng con mắt tình yêu được khai mở, Hàn Mạc Tử đã thấy Chúa có mặt tỏ bày tình yêu và “giải nghĩa yêu” qua mọi sự, dưới đáy nước hồ reo, qua tơ liễu run trong gió...
Đây
phút thiêng liêng đã khởi đầu...
Ai
hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để
nghe dưới đáy nước hồ reo
Để
nghe tơ liễu run trong gió,
Và để xem Trời giải
nghĩa yêu.
Hàn Mạc Tử đã thấy được mọi cảnh vật, dù rất tầm thường, đều mang hương vị kỳ diệu như những phép lạ: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc...” Chính nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã nhận ra: “Tất cả đều phải rất mượt mà, rất đậm đà, rất ngọc ngà... dù áo em chỉ là áo trắng, hoa đây chỉ là hoa bắp... Bởi vì thi sĩ Hàn Mạc Tử đã thấy Đạo ở tất cả, ở đáy nước hồ reo, và nhất là ở tình yêu...”
Đúng rồi, Trời đang giải nghĩa yêu qua mọi sự... dù là cùi, dù là mồ thối. Ngài đã sống lại và đang hiện ra: “Thầy đây, anh em đừng sợ... Bình an cho anh em... Các môn đệ vui mừng vì trông thấy Chúa”.
Phút thiêng liêng
đã khởi đầu. Nào chúng ta cùng lên đường với trường ca vật lộn và phép vượt
nhiệm mầu.
Lm DŨNG LẠC TRẦN CAO TƯỜNG