bút hiệu Phương Khanh
– sinh ngày 20-5-1920 tại Lưu Phương, gần nhà
thờ đá Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
– Qua đời ngày 06-9-1965 tại
Sài Gòn, hưởng dương 45 tuổi.
Cộng
tác với các báo: Tiếng Kêu (Phát
Diệm, 1945-1952), Thanh Niên (Nam
Định, 1942-1946), Văn Đàn (Sài Gòn
1959-1964), Sáng Tạo, Hiện Đại, Luận Đàm,
Gió Mới (Sài Gòn, 1961-1965).
Thi phẩm: Mùa Đời – Nghiên cứu:
Thanh Niên Trước Vấn Đề Trong Sạch (1941), Cuốn Sách Bỏ Dở (1952), Đi tìm Ánh
Sáng (1946), Thân phận Lao động (soạn chung với Phạm Đình Tân); Tiểu thuyết:
Những ngày đẫm máu (1953); một số luận đề về các tác giả văn học: Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Kế Xương, Tự Lực Văn Đoàn…
VÀI KỶ NIỆM VỀ NHÀ VĂN, NHÀ THƠ NHÀ GIÁO NGUYỄN DUY DIỄN
Phạm Đình Khiêm
Bắt đầu viết văn làm thơ từ 20 tuổi, nhà văn, nhà thơ, nhà
giáo Nguyễn Duy Diễn vừa say mê với sự nghiệp văn thơ, vừa tận tụy giảng dạy
văn thơ cho lớp trẻ, trọn 20 năm cho đến khi từ trần (1965).
Biết bao văn hữu, thi hữu đã đi qua trong cuộc đời tương đối
ngắn ngủi của ông. Nhưng thân thiết với ông hơn cả, có lẽ là Hồ Dzếnh
(1916-1991) và cùng với Hồ Dzếnh là nhà văn linh mục Thanh Hải (1910-1992) và
Phạm Đình Khiêm. Những ngày rảnh rỗi, cần phải thay đổi không khí, “bộ tứ” này
thường hẹn hò và lui tới gặp nhau, chuyện trò giải khuây và đàm đạo văn thơ, hoặc
tại nhà in và xuất bản Á Châu, nơi Hồ Dzếnh làm việc và in ấn tác phẩm của mình
do ông Nguyễn Bá Đĩnh làm chủ, ở phố Hàng Bún Hà Nội; hoặc tại Nam Định, nơi xuất
bản bán nguyệt san Thanh niên,
do Phạm Đình Khiêm chủ bút (sau đổi thành tuần báo); hoặc tại Phát Diệm, nơi ở
của gia đình Nguyễn Duy Diễn; hoặc tại Thanh Hóa với nhà văn Công giáo Thanh Hải,
tức linh mục Nguyễn Định Tường – mà Thanh Hóa lại là “Quê Ngoại” của Hồ Dzếnh, khung cảnh của những tác phẩm Chân trời cũ (1942), Quê Ngoại (thơ 1943)…
TUYỂN THƠ
ĐÂY, GIỜ LINH THIÊNG
Thành
Bê Lem, một đêm xưa rực rỡ
Cả
muôn loài quỳ lạy, tiếng reo vang…
Đoàn
thiên thần so cánh thắng lâng lâng
Cao
tiếng hát ru trần gian lạnh lẽo.
Nhạc
nao nức hương thiên thu tuyệt diệu
Đây
vòm trời thơm ngát ánh muôn sao!
Vàng
tuôn rơi lấp lánh tự trời cao;
Mưa
hy vọng kết triều thiên thắm thiết.
Trời
đất cũ từ đây thôi cách biệt!
Muôn
trùng thiêng cầm sắt nối thang mây…
Ôi!
Thiên Đàng bừng sáng: gió xuân bay
Làm
tung nở những búp lòng xao xuyến.
Đời
đổi hướng, Nhạc Vàng đương hiển hiện!
Khói
trầm dâng ngây ngất khắp không gian…
Hồn
thê lương bừng tỉnh choáng hân hoan
Nghe
rộng mở một Mùa Xuân sáng láng…
GIÃ
TỪ ĐÊM TỐI
Đêm
buông tơ, gió hiền xen kẽ lá,
Ngát
mùi thơm, luống đất gợn mình hoa,
Ta
bước đi, nhịp chân vờn bóng ngã
Nhạc
dư vang chìm đọng dưới trăng ngà.
Đường
mở rộng sương lên ngàn sắc biếc
Chồi
thơm tho đua nở giữa đêm ngàn…
Ta
bỏ lại nơi muôn trùng thắm thiết
Những
Hồn Đêm phảng phất cánh mênh mang…
Tay
lưu luyến gạt trăng vàng rơi rụng
(Sáng
lung linh làm ngại bước chân đi)
Lòng
mường tượng giữa triền năm tháng lụn
Một
mùa xuân đang nở đợi ta về.
Ta
tô lại những khung trời nao nức
Hồn
linh thiêng vời vợi ý thiên thu…
Giọng
sa mạc xôn xao nguồn cảm xúc
Qua
thời gian hẳng đượm dáng hiền từ.
Ta
trở lại với hồn người, Đất Nước!
Niềm
hân hoan thăm thẳm vợi lòng sầu…
Và
nghe nở dưới chân kề điệu bước,
Muôn
dòng đời bát ngát ý ca dao.
MÀU
THƯƠNG NHỚ
Mưa
thu về đâu đây,
Rưng
rưng màu thương nhớ
Ta
lượm tờ lá úa
Chiều
xuống: Trầm say say,
Khối
tím mây…
Sương
đâu lam biếc tỏa đầy,
Nương
chiếu bóng ngả, đêm dài nghe chuông
Hỡi
đâu tay mởn búp hường
Hàng
mi sầu đọng mấy đường tơ trăng?
Lạnh
tiếng đàn
Tình
tang…!
Mùa
thu
Ôi
mùa thu!
Mong
manh
Tay
tháp bút
Màu
thư xanh!
Nghiêng
nghiêng dòng chữ ướt,
Thương
nhớ dài năm canh.
Dáng
người thon nhỏ
Mắt
đựng hồ đời…
Trầm
khúc nhạc gió về: đâu hơi thở?
Ta
rùng mình vai lạnh: Nắng trăng rơi…
Phơi
áo mùa thu,
Gọi
về trong gió mơ xưa,
Màu
xanh thư cũ bơ vơ giọng sầu.
XÂY DỰNG
Ta
sực tỉnh vươn mình trong ánh sáng
Mắt
trũng sâu sau giấc-mộng-kinh-hoàng
Lửa
bập bùng rờn rợn tiếng âm vang
Của
vũ trụ gầm la trong tội ác
Ta
đi sâu dưới khung trời ngơ ngác
Bóng
triêu dương vàng tím đậm linh hồn
Rừng
cô liêu bật rễ, núi hồng hoang
Ngọn
sụp đổ chắn ngang triền thế kỷ.
Khắp
đây đó nấm xương mòn biến thể
Xác
phi cơ (chùn vỏ) chúi bên đường
Đống
gươm cùn, trái phá ngậm phong sương
Nằm
trơ trẽn thẹn bốn mùa hoa cỏ.
Ta
bước qua những đô thành nín thở
Đoàn
chiến xa gục đổ dưới lưng hào
(Chặng)
thép gai quằn rỉ khóc binh đao
Một
bông lý nở trong lòng đại bác.
Đây
bom, lửa khơi tình thương bát ngát,
Đạn
cày sâu trong lòng đất khô màu
(Bóng)
linh hồn trọng đại trút thương đau,
(Và)
ngự trị trên lâu đài tàn phá!
Đây
sức sống đương tràn theo vạn ngả,
Nhựa
băng mình dồn dập dưới chân đi.
Những
chồi non từ hủy hoại tân kỳ
Say
đất mới đương hẹn mùa hoa trái.
Chim
hy vọng, nghe dòng đời phấp phới…
Nhịp
lời ca vang rúng dặm đường về.
Vui
nghẹn lời, ta góp sống điên mê
Giữa
tàn phá, tô khung trời xanh thẳm.
LƯU LUYẾN
Gió
thơm… thơm nắng tơ,
Lụa
trải óng cầm ca,
Chân
vướng màn nguyệt lộng,
Đời
đậm tứ… la đà…
Đường
mòn khơi ý xưa,
Gà
gáy: Đậu hồn trưa,
Nhịp
nghiêng tan bước vắng,
Xanh
ngả rụng loang bờ.
Gió
thơm… thơm nắng tơ,
Lụa
trải óng cầm ca,
Chân
vướng màn nguyệt rộng
Đời
đậm tứ… la đà…
Xưa
gầy không đón đưa,
Nương
bước đụng hồn trưa
Đời
lành đâu gõ nhịp?
Lòng
trũng nhớ … reo mưa…?