Đối với Hàn Mạc Tử, Thơ là Kinh, và Kinh là Thơ. Thơ đã đạt tới Kinh, và Kinh đã nhập vào Thơ |
Một
khối tình nức nở giữa âm u,
Một
hồn đau rã lần theo hương khói,
Một
bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một
lời ru hoi hóp giữa không trung,
Cả
niềm yêu ý nhớ, cả một vùng
Hóa
thành vũng máu đào trong ác lặn.
(Trường Tương Tư)
Ngày 11, tháng 11,
năm 1940, Hàn Mạc Tử trút hơi thở cuối cùng, tại bệnh viện Qui Hòa, sau 4 năm
đau đớn vì phong hủi, và 28 tuổi đời giữa độ anh hoa.
Thân thế Hàn Mạc
Tử? Chính tác giả vừa phác họa, qua những vần thơ trên, sáng tác trong giờ phút
đau thương nhất của cuộc đời: nghèo khổ, bệnh tật, thất tình, cô đơn.... Bao
nhiêu đổ vỡ thê thảm, từ tấm “thân tàn ma dại”, đến tương lai sự nghiệp, qua
“tình duyên dở dang... uyên ương không đoàn tụ”. Thân phận bi đát ấy, chính
người đã hình dung như một “vũng cô liêu”, như “một chiều vàng úa”, lênh láng
máu đào của con tim tan vỡ.
Nhưng ý thức tiêu
tán đây không dẫn đến hư vô, tận tuyệt. Thân thế Hàn Mạc Tử không phải thấp
thoáng bóng quạ kêu, mà có dáng bồ câu siêu thoát. Đôi cánh cứu độ đã giúp người
vượt qua vực thẳm tuyệt vọng, vươn lên cõi trường sinh bất diệt, tìm được
“phong vị thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời”, là THƠ và KINH.
Trước tàn nhẫn của
cuộc đời, Thơ là nguồn an ủi dịu hiền:
“Anh
ngâm nga để mở rộng cửa lòng
Cho
Trăng Xuân tràn trề say chới với
Cho
Nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi”
(Trường Tương Tư)
Trước cái mong manh
của thế thái nhân tình, Thơ là niềm lưu luyến bất diệt:
Cùng
trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng
tình em tha thiết như Văn Thơ
Ràng
rịt mãi cho đến ngày tận thế.
(Trường Tương Tư)
Thơ Hàn Mạc Tử
không còn là một món tiêu khiển – dù thanh tao – bên chén rượu hay cuộc đời, mà
là chính sự sống của người.
“Tôi đã sống mãnh liệt
và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn... những thứ
ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng, tạo ra đang khi máu cuồng rên
vang dưới ngòi bút”.
(Tựa
Đau Thương)
Với Hàn Mạc Tử, Thơ
đã trở thành KINH:
“Lạy Chúa Trời tôi!
Hãy ban cho tôi hằng hà sa số là ơn lành, ơn cả... Thơ tôi sẽ rất no, rất ớn,
rất nư, trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói chan muôn vàn phước
lộc”.
Thi nhân trở thành
vị tư tế nối liền vạn vật với Tạo Hóa:
Hãy
cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió
Hãy
dâng cho một tràng chuỗi trăng sao.
(Tựa Xuân Như Ý)
Từ “áng gió băn
khoăn”, nước mây “hổn hển”, qua “những lời năn nỉ của hư vô” đến “lời câm” của
“muôn vì sao áy náy” và cảnh tịch mịch của đêm khuya: cả vũ trụ đượm một màu
huyền diệu như một buổi kinh lễ, trầm hương nghi ngút:
Khói
nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc...
(Đừng cho lòng bay xa)
Bỗng
đêm nay trước cửa bóng trăng quì
Sấp
mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời
nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu
Não
nề lòng viễn khách giữa cơn mơ...
(Hãy Nhập hồn em)
Vì theo Hàn Mạc Tử,
“Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn
khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt”, nên trên đường lữ thứ tìm về Tuyệt đối, Thơ đã bắt gặp Kinh
và kết duyên tao phùng:
Đây rồi, đây rồi,
chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý...
(Ave Maria)
Trong thư viết cho
Hoàng Trọng Miên, năm 1939, Hàn Mạc Tử đã nhận định sứ mệnh của thi sĩ:
“Thi sĩ không
phải là một người thường. Với một sứ mệnh của Trời, thi sĩ phải biết đem tài
năng ra ca ngợi Đấng Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp của Thơ, để
đua nhau nhìn nhận và tận hưởng”. (“Quan
niệm thơ” trong tập Chơi giữa mùa Trăng)
Hàn Mạc Tử cũng đã
tâm sự với Bùi Tuân:
“Tôi dự định viết
ra nhiều tập thơ về tôn giáo... bao giờ tôi cảm thấy mình đau đớn trong xác
thịt và trong tâm hồn, và nhất là tôi thấy mình bình tĩnh trong sạch, thì mới
làm ra được những bài thơ đạo hạnh”.
Có lẽ vì thế mà
chuỗi ngày cuối cùng của Hàn Mạc Tử trong bệnh viện Qui Hòa đã đan kết bằng Thơ
và Kinh:
“Lại
đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối, khi ăn xong,
cũng vừa đi bách bộ, vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ
ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả...".
Đối với Hàn Mạc Tử,
Thơ là Kinh, và Kinh là Thơ. Thơ đã đạt tới Kinh, và Kinh đã nhập vào Thơ, hoặc
như Hoài Thanh đã nhận xét chí lý: “Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế, mà
cũng để nối liền người ta với Thượng Đế”.
Như Hàn Mạc Tử đã
khắc khoải và tìm gặp được Niềm Tin, ta có thể theo dõi ba chặng đường của thi
sĩ:
I. Thơ và Kinh thao
thức thuở Đợi Chờ
II. Thơ và Kinh rên
siết trong Đau thương
III. Thơ và Kinh
chan hòa niềm Hy Vọng.
Trước hết là Thế
Giới Đợi Chờ trong Thơ Hàn Mạc Tử, qua buổi phỏng vấn nhà văn Đặng Tiến.
1. Thưa Anh Đặng
Tiến, Anh đã viết trong số Văn đặc biệt (số 179/1972) một thiên khảo sát rất tế
nhị và đặc sắc về “Đức Tin trong hồn thơ Hàn Mạc Tử”, và lần đầu tiên đưa ra
một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm, vì theo anh, kiến trúc toàn bộ
của thơ Hàn Mạc Tử đều vang dội lời truyền giảng Tin Mừng cứu độ. Vậy xin anh
cho biết, thơ Hàn Mạc Tử phản ánh lịch sử Cứu độ như thế nào?
– Nếu lịch sử Cứu
độ chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn hạnh phúc sơ khởi đổ vỡ vì nguyên tội, giai
đoạn Cựu ước mong đợi Đấng Cứu Tinh, và giai đoạn Tân ước, từ Chúa ra đời đến
ngày Khánh tận, Chúa tỏ hiện trong vinh quang, – thì 3 giai đoạn đó cũng là cơ
cấu Thơ Hàn Mạc Tử: Vũ trụ Gái quê đã sụp đổ trong Đau thương, mà
nhà thơ đã chịu đựng, để đợi sống lại một mùa Xuân như ý. Gái quê,
Đau thương, Xuân như ý, ba tập thơ chính, ba đoạn đường trong
hành trình của nhà thơ, họa lại hành trình của Đức Tin Thiên Chúa giáo.
2. Khái niệm
tổng quát anh vừa đưa ra, làm liên tưởng tới chuyên khảo của Võ Long Tê bằng
tiếng Pháp: “Kinh nghiệm thi ca và Hành trình tinh thần của Hàn Mạc Tử”, hành
trình theo châm ngôn của nhạc sĩ Beethoven: “Từ Đau Khổ đến Hoan Lạc”, hay như
câu thơ của Phạm Đình Tân trong Tiếng Thầm: “Đau khổ là Đường lên Ánh Sáng”.
Trước khi bước vào con đường đó, hành trang nhà thơ gồm những gì? Quan niệm của
thi sĩ về Thơ ra sao?
– Quan niệm Thơ của
Hàn Mạc Tử đã diễn tả rõ ràng trong bài tựa: “Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ.
Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong
trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng, chung quanh người là mơn
trớn với yêu đương”. Thi sĩ là lữ khách trên đường Tuyệt đối, là kẻ hành hương
tìm về Vườn Mơ, Bến Mộng: “Người đang say sưa đi trong Mơ ước, trong Huyền
diệu, trong sáng láng và vượt hẳn ra ngoài Hư linh”. Thơ Hàn Mạc Tử là niềm nhớ
nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy, một “tráng lệ” đã phôi pha:
“Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi
vị thơm tho một ái tình
Đố
kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít
nhiều hơi hám của kiên trinh”.
(Thời gian)
Vì kiêu căng và bất
tuân, con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả “tráng lệ của thời xanh”. Niềm nhớ
nhung một cõi Trời cách biệt, một Địa đàng đã khuất nẻo, chuyển tiếp sang mơ
ước khôi phục lại Mùa Xuân trinh nguyên của ngày sáng thế đầy thinh sắc, tinh
hoa và châu báu!. Trong Gái quê và những bài đầu tập Đau thương,
Thơ là niềm mong đợi, như Cựu ước là sự chờ đón Đấng Cứu Thế.
“Trong
làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột
soạt gió trêu tà áo biếc
Trên
giàn thiên lý bóng xuân sang”.
(Mùa Xuân Chín)
Ngày xuân mong đợi
còn thuần lương, còn là một mùa xuân ngoại đạo, hồn nhiên và vô tư như tất cả
những hội hè của mùa Xuân Việt Nam, nhưng đã chín thẫm một u minh đợi chờ để nở
lên một mùa Xuân sáng thế, “hồi trời đất mới dựng nên” hay một mùa Xuân tái
tạo, một mùa Xuân ơn phúc, “ra đời một lần với Chúa Giêsu”.
3. Anh đã hướng
tất cả hồn thơ Hàn Mạc Tử về Đức Tin, vậy anh nghĩ thế nào về nhận xét của
Quách Tấn: “Tôi nhận thấy vang bóng của Đạo Phật có phần đậm hơn Đạo Thiên
Chúa”?
Vết tích Phật giáo
và ngay cả Lão giáo, Khổng giáo trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm
đến ngôn ngữ, điều đó không có gì nghịch lý cả: Hạt mầm Thiên Chúa giáo khi nảy
nở trên đất Việt Nam, thì tự nhiên thích ứng với khí hậu, phong thổ. Vũ Ngọc
Phan nhận xét về Hàn Mạc Tử: “Ông ca tụng đạo Gia-tô với một giọng rất chân
thành.... Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng
mới”.
Hoài Thanh nới rộng
vấn đề tới tương quan giữa Tôn giáo và Dân tộc: “Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy
chứng tỏ rằng Đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết
tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới
thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”.
Thơ Hàn Mạc Tử đã
chứng thực điều đó: niềm tin Thiên Chúa đã trở thành một niềm tin thuần túy
Việt Nam. Diễn đạt bằng một ngôn ngữ Việt Nam, phản ánh nền văn hóa dân tộc.
Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ rằng Đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ |
4. Thơ Hàn Mạc
Tử không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, nhưng là điểm gặp gỡ giữa Đức Tin
và Truyền thống Dân tộc, như anh vừa nói. Thế còn giáo dục gia đình Hàn Mạc Tử,
có thể coi như mảnh đất thuận lợi vun bồi niềm tin và truyền thống đó không?
– Một sự kiện cho
phép xác nhận tư tưởng đạo đức của gia đình Hàn Mạc Tử: Thân sinh Hàn Mạc Tử là
Nguyễn Văn Toản đã học Đại chủng viện Huế đến chức tư; sau ra lập gia đình, ông
đã lấy những đức tin căn bản trong đạo lý cổ truyền để đặt tên cho sáu người
con: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí (tức là Hàn Mạc Tử), Tín và Hiếu.
Hàn Mạc Tử nhìn
nhận:
“Tôi
làm trăng cổ độ
Lượng
trời rộng bao la
(Cao hứng)
Lòng chàng là bến
đợi. Trong những kích thước mông mênh. Có thể là một “Trời thu man mác”, có thể
là một “hàng cau nắng mới lên”, thường thường là một đêm:
“Trăng
sao đắm đuối trong sương nhạt
Như
đón từ xa một ý thơ”
(Đà Lạt trăng mờ)
Thơ Hàn Mạc Tử
trước tiên là một thế giới đợi chờ, trong im lặng linh thiêng, trong tịch mịch
vô cùng:
“Không
một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu
là tiếng vỡ của sao băng”
(Đà Lạt trăng mờ)
Hàn Mạc Tử mô tả
thế giới đợi chờ đó bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hóa niềm nở và hướng
thượng, đồng thời bằng Đức Tin nuôi dưỡng trong Phúc âm.
Bài Đà Lạt trăng
mờ có lẽ tiêu biểu được cho thế giới đợi chờ đó: ngoài sự hòa điệu thanh
thoát giữa nội tâm và thiên nhiên, còn mang thêm ý thức vời vợi trước cõi vô
cùng.
Đợi chờ trước cuộc
đời đầy hứa hẹn giữa 24 xuân xanh, Hàn Mạc Tử có ngờ đâu niềm mong đợi ấy bỗng
tàn úa ngay trong nụ, không bao giờ sinh hoa đậu trái: Triệu chứng bệnh phong
cuối năm 1936, như hồi chuông báo tử, gieo vào lòng người bao đen tối hãi hùng.
Trong lá thư gửi ông bạn Trường Xuyên ở Nha Trang, Hàn Mạc Tử viết.
“Anh ơi, gần một
năm nay, muốn giấu anh nên không viết thư cho anh, lòng tôi hết sức đau khổ.
Song thà chịu đau khổ còn hơn cho anh biết, khiến anh phải đau khổ vì tôi”.
Đau thương, trước khi thành tập thơ, đã là kinh nghiệm thân phận
thảm khốc của con người Hàn Mạc Tử.
Nhưng phải chăng
rên siết khóc than là hèn nhát? Im lặng can trường chịu đựng, có phải cao quí
hơn không? Hàn Mạc Tử trả lời trong bài tựa Đau thương:
“Nàng đánh tôi
đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú... tôi phản lại tất cả
những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi, đều hết sức giữ bí mật”.
Thơ là tâm sự bi
đát của người:
“Ta
muốn hồn trào ra đầu ngọn bút...
Trải
niềm đau trên mảnh giấy mong manh”
(Rướm máu)
Nhưng
tâm sự ấy, nhiều người không biết, trước khi Hàn Mạc Tử qua đời. Thêm một thất
vọng cho nhà thơ. Đang lúc Hàn Mạc Tử viết giới thiệu Xác thu của Hoàng
Diệp năm 1937, ca tụng Điêu tàn của Chế Lan Viên năm 1938, đề tựa Tinh
huyết của Bích Khê năm 1939, đề bạt Một tấm lòng của Quách Tấn cũng
năm 1939, thì chính tập Thơ điên
của mình lại chẳng ra đời được!
Thân thế, sự nghiệp
đã phũ phàng, lại còn thêm cảnh nghèo túng, không tiền uống thuốc, không nơi
trọ hẳn hoi. Hàn Mạc Tử viết cho Trần Thanh Địch:
“Trí
yếu quá, từ hôm tết đến nay, Trí không uống đến thuốc ... Bây giờ chỉ xin ơn
trên đưa sức mạnh thiêng liêng đến cho Trí thôi, chứ làm gì có thuốc mà uống...
Hiện nay Trí đã về tạm ở nhà: cái nguyên nhân là không tiền uống thuốc!”
(Trần
Thanh Mại, tr.73)
Còn về nhà trọ
trong khi chữa bệnh thì “có một mái nắng dọi nhiều quá! Từ trưa đến chiều, in
cả lên mặt giường không sao nằm được. Tôi đã lấy nào là bì thư, nào là giấy
nhật trình nhét khắp cả, thế mà chạy trời không khỏi nắng” (Trần Thanh Mại, tr.
82)
Nói gì đến tình
duyên dang dở với Mộng Cầm?
Người
đi một nửa hồn tôi mất
Một
nửa hồn tôi bỗng dại khờ....
(Những giọt lệ)
Để chỉ còn sống
trong “buổi chập chờn”, nghe “thu héo nấc thành những tiếng khô”, thấy “những
mảnh nhạc vàng rơi lả tả” theo “trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã”, và
ngậm ngùi vì “một làn hương mới nửa lừng sa ngã”.
“... Uyên ương khi
trăng sao bàng bạc
Biến mất rồi, anh
thấy khói hương tan”
(Khói hương tan)
Có lẽ văn học Việt
Nam không có những vần thơ chua xót nào bằng:
“Ôi
trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà
tang thương còn lại mảnh trăng rơi!”
(Phan Thiết, Phan Thiết)
Kinh nghiệm Đau
thương dồn dập trong thân xác và tâm hồn tuy đã làm nhà thơ kêu rên thảm
thiết, nhưng vẫn không đẩy người vào vực thẳm tuyệt vọng. Trái lại, người nói:
“Tuy cực khổ thế mà
tôi vẫn an vui. Ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một
mình, xem ra thú vị không biết mấy!” (Trần Thanh Mại, tr. 121)
Thái độ ấy đã làm
những nhà phê bình kinh ngạc. Trần Thanh Mại cho là “Đau thương giam cầm không
kỹ, thoát lọt ra trong một biến thể mới, dị kỳ, quái gở”. Vũ Ngọc Phan cũng đặt
vấn đề: “Một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh
như thế, thật cũng lạ” (Vũ Ngọc Phan III, 33). Còn Hoài Thanh thì không dám phê phán: “Thiếu lòng tin, tôi chỉ là du khách
bỡ ngỡ” (Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, tr.212).
Chỉ có Lòng Tin mới
cắt nghĩa được thái độ can đảm chịu dựng ấy. Đức Tin là nguồn an ủi trong đau
thương, như Quách Tấn xác nhận: “Tử tìm được niềm an ủi lớn nhất trong nguồn
Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò”.
(Quách Tấn, Văn số
73-74/ 7-1-67, tr. 116)
“Tử tìm được niềm an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò”. |
Quả thế, trong khi
sưu tầm tài liệu về thi sĩ, Trần Thanh Mại “có tìm thấy trong một nhà trọ của
chàng, một mẩu báo “Vì Chúa”... nói về nguồn an ủi trong bệnh tật” (Trần Thanh
Mại, tr. 120).
Hàn Mạc Tử đã chấp
nhận bệnh tật, nghèo túng, cô đơn, vì Đức Tin đã dạy rằng: “Những đau khổ hiện
tại không có nghĩa lý gì, so với những vinh hiển rồi đây sẽ được thể hiện nơi
mỗi chúng ta”, theo lời thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. “Vạn vật ngưỡng vọng
về ngày thể hiện vinh quang với ước mơ được giải thoát ra khỏi hư nát, để đạt
tới tự do và vinh quang của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng vạn vật
đang còn rên siết trong kỳ mãn nguyệt khai hoa, và quằn quại trong mùa sinh nở”
(Rm 8, 18-22).
Đau thương hiện tại
là thai nghén cho Vinh phúc ngày mai.
Niềm Tin ấy mang lại
sức mạnh và an hòa trong đau thương, vì được thông dự vào Mầu nhiệm Đau khổ của
Chúa Giêsu, được tham gia công đức tế độ, dùng đau thương làm phương tiện cứu
thế, chuẩn bị cho Vinh hiển mai sau.
Niềm Tin tạo nên
diệu cảm về sứ mệnh Thi Ca. Hàn Mạc Tử viết:
“Bởi muốn cho
loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở thế gian này – nghĩa là tạo ra những tác phẩm
tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời – Đức Chúa Trời bắt chúng phải mua bằng giá
máu, luôn luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình.
Không
rên siết là thơ vô nghĩa lý.
hay:
Ta
hiểu chi trong áng gió nhiệm mầu
Những
hạt lệ của trích tiên đày đọa.
Cho nên thơ là
một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại
Trời...”
(Quan
niệm thơ gởi Hoàng Trọng Miên, Chơi giữa mùa trăng)
Ước mơ làm gió, làm
trăng, làm thanh khí để “hòa hợp với tinh anh” qua những bài “sáng láng”, “hồn
lìa khỏi xác”, “siêu thoát”, Ngoài vũ trụ, chính là ước mơ trở lại Trời.
Và những tập thơ Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên,
cũng như hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội, đã được
sáng tác theo chiều hướng gió.
Tại sao Hàn Mạc Tử
lại ước mơ “tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thật” như thế? Có lẽ vì chiêm bao
ấy lại thực hơn sự thực, và thế giới thực ta đang sống, chỉ là chiêm bao, vì sẽ
hư nát toàn diện:
Cả
không gian, cả thời gian
Đều
trộn trạo, điều hòa và xí xóa...
Cả
vũ trụ tan theo ngày phán xét
Là
khủng khiếp cả trời đất tiêu diệt.
(Ngoài vũ trụ)
Vì bên kia thế giới
hư nát và đau thương này, đôi mắt thần diệu của nhà thơ Minh Duệ Thị hay
Phong Trần – những bút hiệu đầu, trước bút hiệu Hàn Mạc Tử – cũng
như đôi mắt Đức Tin của François Nguyễn Trọng Trí đã khám phá ra một thế giới
mới, toàn vẹn, toàn bích, toàn thiện, vĩnh viễn trường tồn, không còn đau đớn
chết chóc, không còn khóc lóc tang thương: “Vì thế giới cũ đã qua đi”, như lời
sách Khải huyền, chỉ còn:
Ánh hào quang chan chói ngất lưu lý... (Ra đời)
... Vì có Đấng Hằng Sống Hằng Ngự Trị
(Ngoài vũ trụ)
Ánh sáng muôn đời chiếu dọi lại quá khứ và hiện tại, giúp nhà
thơ lượng giá cuộc đời và thi phẩm, để dâng lên lời kinh sám hối:
Tôi van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay Thi sĩ kẻ lên Trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông
Hằng.
(Đêm Xuân Cầu
nguyện)
Nhất là trước nguồn “ơn võ lộ hòa chan”, nguồn sức mạnh nâng
đỡ trong những “cơn lâm lụy vừa phải trải qua dưới thế”, Thi sĩ đã cảm động
“rưng rưng hai hàng lệ” và tha thiết dâng lên lời cảm tạ phò nguy trong bài Ave
Maria.
Ánh sáng muôn đời chiếu dọi lại quá khứ và hiện tại, giúp nhà thơ lượng giá cuộc đời và thi phẩm, để dâng lên lời kinh sám hối |
Không phải vô tình mà Hàn Mạc Tử ca tụng Thánh Nữ Đồng Trinh
Maria dưới danh hiệu “Mẹ Sầu Bi”. Người đã tìm được nguồn an ủi và tấm gương
anh linh nơi “Đấng tinh tuyền thánh vẹn” mà đã sống trọn Đau thương hiện thế,
dâng đời mình và mạng sống con mình để cứu chuộc thiên hạ, trước khi “tiến lên
như rạng đông, đẹp như mặt trăng rực rỡ như mặt trời” bước vào vinh quang vô
tận, hay nói như Hàn Mạc Tử, thành “người trăng ăn vận toàn trăng cả” và trở
nên “Bắc đầu rạng bình minh, chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới”.
Từ đây, Đấng “đầy ơn phước và rất nhiều
phép lạ” sẽ biến đổi “Mật Đắng” thành Nguồn thơm, “Máu cuồng và
Hồn điên” thành “lòng thấm nhuần ơn
trìu mến”, để Thơ và Kinh chan hòa niềm Hy vọng.
Nếu xưa kia, “có
một nửa trăng thôi, một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”, thì bây giờ lại nguyện xin:
Cho
tình tôi nguyên vẹn tỏ trăng rằm
Thơ trong trắng như một
khối băng tâm.
Nếu xưa kia, “sóng
gió nổi đùng đùng như địa chấn”, thì... “Trời hôm nay... bình an... như nguyệt
bạch”.
Tử đã tìm được nguồn an ủi và tấm gương anh linh nơi “Đấng tinh tuyền thánh vẹn” mà đã sống trọn Đau thương hiện thế, dâng đời mình và mạng sống con mình để cứu chuộc thiên hạ |
Nếu xưa kia, “mê
man như tới chốn phụng trì, ở mãi đấy không về Thiên cung nữa”, thì bây giờ lại
chắp cánh, phập phồng theo nhịp tim, bay lên cõi “ngàn năm ơn phước”:
Phượng
trì! Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì!
Thơ
tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn
tôi bay biết bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời
chói vạn hào quang.
Hàn Mạc Tử đã vượt
qua đêm tối, về “tắm gội trong nguồn ánh sáng”. Từ mùa đông khô héo tàn tạ của Đau
thương đã nảy mầm một mùa Xuân như ý, tượng trưng cho niềm Hy vọng
vào Đời Sống Mới, hạnh phúc trường cửu, vinh quang bất diệt.
Như Thành thánh
Giêrusalem mới trong sách Khải huyền từ trời xuống, kiều diễm như Nàng
Dâu, trang điểm đón Tân Lang và huy hoàng rực rỡ, giữa bảo ngọc, trân châu, vũ
trụ Xuân như ý của Hàn Mạc Tử cũng tràn đầy vinh quang diễm lệ:
Trái
cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm
Còn
mặt trời kia tợ khối vàng.
(Xuân đầu kiên)
Niềm chua xót khi
xưa đã trót để cái “tráng lệ những thời xanh” vùi dập dưới cát bụi của thế giới
đau thương, bây giờ đã biến thành hân hoan tìm lại được trong thế giới hy vọng,
“sáng trưng như thất bảo”:
Bốn
mùa thơ xanh xanh như cẩm thạch...
(Say thơ)
...
Trên nước cả có vô vàn châu báu...
(Ra đời)
Xuân như ý là mùa xuân tái tạo, phục hồi mọi vẻ tươi sáng, tốt
đẹp, lúc “thiên địa mới tinh khôi”, chưa vẩn bụi trần, chưa hoen máu lệ, chưa
nhuốm tang thương:
Liên
hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát
hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làn
nước mát và chưa bao giờ gợn
Vết
phong trần đưa lại ở xa khơi.
(Quần Tiên Hội)
Xuân thời gian, dù
có triền miên vô tận với “nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc” và muôn vẻ tinh anh,
cũng vẫn chưa thỏa được lòng ao ước, “chưa nguôi được chí muôn sao”: vì còn
thuộc giới tự nhiên và chỉ là công trình của Thiên Chúa, chứ chưa phải chính
Thiên Chúa. Do đó, Thi nhân phải “mời cho được Xuân thiêng ra đời”, cho Xuân
như ý thành mùa xuân ơn phước, hiện hình nơi bản thân Chúa Giêsu và nước
vinh phúc, thái hòa, Ngài mang lại:
Thiên
hạ bình và Trời tuôn ơn phước.
(Nguồn thơm)
“Vì chưng muôn xuân
là lương thực ngon ngọt, mĩ vì: ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh
khiết; khí xuân là mạch trường sinh bất tử; tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly:
tuổi xuân là Ngọc như ý; tên xuân là Dạ lan hương.
“Và xuân là phong
vị thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không
khí, bàng bạc cả dải hà sa, chen lấn vô tận hồn tạo vật...
“Loài người hãy tận
hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao Danh Cha cả sáng...”
(Tựa
“Xuân Như Ý”)
Xuân thổn thức rạo
rực trong Gái quê, khắc khoải đến điên cuồng trong Đau thương, đã
được tinh luyện trong Xuân như ý và trở nên thanh thoát dịu hiền:
...
Đây là xuân trước đợi chờ
Hơi
ấm áp như một nguồn an ủi
Trời
mở rộng và không ai hờn tủi
Lượng
bao dong tha thiết cánh tay êm.
(Say thơ)
Mùa xuân dịu hiền
hàn gắn mọi vết thương thân xác và tâm hồn. Như hình ảnh các nữ tu săn sóc bệnh
nhân trại cùi Qui Hòa, mà Hàn Mạc Tử đã ca tụng trong bài “Hồn Trinh Bạch”
nguyên bằng tiếng Pháp, tìm được trong túi áo, sau khi ly trần:
“Hỡi các Thiên
Thần của Chúa, Thiên Thần hòa bình và hoan lạc, có thấy chăng bóng dáng trắng
trong, tinh tuyết, xuất hiện giữa cõi đời? thoạt trông, tưởng là thần phách
Thánh Hiền, hay cốt cách của Thơ, hay bài Kinh thuần túy: thay vì bốc thành áng
hương hay thanh khí, đã hiện thân làm kiếp người!... Đó là các Nữ Tu Phanxicô,
vào đời để thoa dịu đau khổ của những người tàn phế, phong hủi như chúng tôi. ...
tôi muốn chiêm ngưỡng vẻ trong trắng tinh tuyền, nguồn thơ tươi sáng, biểu
dương Hồn Trinh Bạch...” (Theo Trần Thanh Mại tr. 195).
Diễm
lệ, tinh khôi, êm ấm, Mùa Xuân ơn phước nối lại mối Thần Duyên, hòa hợp Trời
Đất và Lòng người:
Trời
trong đấy, trời rất mực quỳnh dao
Duyên
thanh tịnh trăng tứ bề vây kín.
(Trần Thanh Mại, tr. 64)
Trăng đã ngàn ngập
trong thơ Hàn Mạc Tử, hòa đồng với tâm hồn người, qua đêm tối thử thách của
Lòng Tin. Giờ đây Trăng sáng láng đưa người vào cõi huyền diệu, diễn tả trong
bài “Chơi giữa Mùa Trăng”:
“... Thuyền đi
êm ái, chúng tôi cứ ngỡ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa, và ngây ngất vì
ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai
nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hòa
lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền, dâng lên, đồng
dâng lên như khói... cả không gian đều chập chờn những màu sắc phiếu diễu... ở
chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới chở chúng tôi
đây, cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bềnh bồng đến một địa cầu
nào khác...”.
Hàn Mạc Tử đã tìm
về Nguồn Ánh Sáng muôn đời, và nói như Hoàng Diệp, tiến về Ánh sáng tức là tiến
về với con người, với cuộc đời, với thực tại vậy.
Được gặp Xuân
Thiêng, người mong sao
Để
sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương
mến yêu là lộc của lời thơ.
(Nguồn Thơm)
Được hưởng ân tình,
người muốn:
Đem
ân tình rải khắp cả trời duyên,
(Quần Tiên Hội)
Được sinh ra trong
nguồn Ánh sáng, người mong loan báo Tin Mừng Cứu Độ:
Chàng
ơi! Chàng ơi! Sự Lạ đêm qua
Mùa
Xuân tới mà không ai biết cả!
(Ra đời)
Cảm hứng thần bí
như bắt nguồn từ Phúc Âm theo Thánh Gioan:
“Ánh Sáng đã chiếu
dọi trong đêm thâu, mà đêm thâu không nhận biết!... còn ai đón nhận thì sẽ được
sinh lại trong nguồn sáng ơn phước và chân thật”.
Nếu đoạn nhập đề
Phúc Âm Thánh Gioan là một bài thơ ca tụng Lời Nhập Thể như Ánh Sáng
Cứu Độ, thì bài Ra đời của Hàn Mạc Tử là một bản kinh đón mừng Mùa
Xuân Ơn Phước hiện thân nơi Chúa Giáng Trần.
Thơ và Kinh Hàn Mạc
Tử thắp sáng một Niềm Tin giữa lòng người cũng là đợi chờ, rên siết và hy vọng
trước Xuân như ý phúc lộc Triều miên vô tận.
Phạm Đán Bình
Bài này đã được
phát hành qua băng nhựa “Văn Hóa và Tinh Thần”, số 3, Paris Giáng sinh 1985.
Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 322-336.