"Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ." |
Hàn Mạc Tử mất ngày
11 tháng 11 năm 1940. Từ 1942, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Từ ngày Hàn Mạc Tử từ
trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời, mà người ta đã người ta đã nói rất
nhiều, viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử...”[1].
Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã được dành cho nhà thơ tài hoa bạc mệnh. Có lẽ
ở miền Nam, Hàn Mạc Tử là thi sĩ được nhắc đến nhiều nhất. Tôi chỉ e rằng dù
vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn không tiến bộ được bao nhiêu.
Có lẽ lại lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài Thanh muốn nói đến Hàn Mạc Tử đã
hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ[2]. Cùng năm
đó, khi viết cuốn Hàn Mạc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng nguồn tài
liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, ngoài tập Thơ Hàn Mạc Tử mỏng
manh của nhà xuất bản Tân Việt, chúng ta không còn thi liệu nào khác. Chính
Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm,
cũng tỏ vẻ không có nhiều tài liệu hơn chúng ta. Trong bài nói về nhà thơ quá
cố đăng trên Văn[3],
Quách Tiên sinh, khi trích thơ Hàn Mạc Tử đã làm một việc mà ai cũng làm được,
như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là trích từ tập thơ thiếu sót kia, hay trích lại
của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh - trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng.
Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn
giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gửi Bộ Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả bạn
bè của Tử. Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm Hàn Mạc Tử, chúng ta sẽ
giẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nhà thơ – dĩ
nhiên là éo le gay cấn, nhưng không giúp hiểu thêm nhà thơ bao nhiêu - trừ một
vài bài quan trọng, như của Quách Tấn trên số Văn thượng dẫn; ngoài việc
đưa ra một số sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mạc Tử còn bổ chính
nhiều điều do Trần Thanh Mại kể trong cuốn biên khảo về Hàn Mạc Tử[4] xưa nay
vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người về cuộc tranh tụng giữa hai họ
Quách và Trần năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng
Quách Tấn về hai điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu
thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy[5]. Tuy
nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà
nghiên cứu - kể cả Quách Tấn - lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi
người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo? Tưởng khi nhắc đến chuyện ba mươi
năm về trước, Quách Tiên sinh không nên chua cay mới công bình[6].
Chúng tôi trình bày
những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này,
khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát: đức tin Thiên Chúa giáo trong
thơ Hàn Mạc Tử. Chúng tôi không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển
một nhận xét của ông Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... cách đây mấy mươi năm. Chúng
tôi chỉ đào sâu thêm tác phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi
phẩm. Thay vì trích dẫn những câu có hình thức Thiên Chúa giáo như Maria,
linh hồn tôi... thì tôi cố chứng minh là kiến trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc
Tử đều vang dội lời truyền giảng của Phúc Âm. Bài báo chia làm năm phần:
– Nhận định tổng
quát
– Gái quê: Thế
giới đợi chờ
– Đau thương:
con người chịu đựng
– Đau thương:
con người sáng tạo và mơ ước
–
Xuân như ý: Thế giới khải huyền.
*
* *
“Tôi đã sống mãnh
liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn... Thôi
mời cô cứ vào... Ánh sáng lạ trong thơ tôi...”[7]
(tr. 8).
Đối với Hàn Mạc Tử thơ
và đời sống là một bất khả phân, nhất là khi lâm trọng bệnh. Nàng đánh tôi đau
quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (tr.8). Tác phẩm của Hàn mang
tên Đau thương vì nó là Đau thương, nó là “kinh nghiệm trước hết của một
con người, một thực tại con người ngay trong thân phận”[8].
Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh
Maria và Chúa Giêsu bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô rất chân thành.
Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới”[9]. Hoài
Thanh nới rộng đến vấn đề tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mạc Tử
ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra cái không khí có thể
kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt
là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”[10].
Nhận xét này của một kẻ “thiếu lòng tin, du khách bỡ ngỡ”[11]
là Hoài Thanh mang một ý nghĩa đặc biệt, trong Gia-tô giáo Việt Nam, niềm tin
Thiên Chúa đã trở thành một niềm tin thuần túy Việt Nam. Thơ Hàn Mạc Tử đã
chứng thực điều đó: một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng một ngôn
ngữ Việt Nam – ngôn ngữ của thi ca. Đó là điều tôi muốn trình bày qua một dàn
bài bình dị. Tôi chỉ khai triển thêm một câu của Hàn Mạc Tử trong lời Tựa:
Người đang say sưa đi trong Mơ Ước, trong Huyền Diệu, trong Sáng Láng và vượt
hẳn ra ngoài Hư Linh... (tr.7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương
lĩnh của Kinh thánh: một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội; những khổ hạnh
của thân xác như một kinh nghiệm của Mơ Ước và Huyền Diệu; để vươn tới một thế
giới khác sáng láng ngoài Hư linh, thế giới của Phục Sinh, của Khải huyền.
Ba giai đoạn đó là cơ cấu của đời thơ Hàn Mạc Tử. Vũ trụ Gái quê đã sụp
đổ trong Đau thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân
như ý.
*
* *
Ai nói vườn trăng
là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa
nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng; chung quanh
người là mơn trớn với yêu đương...
Những dòng mở tác
phẩm không khỏi làm ta nhớ đến thiên “Sáng Thế Ký” mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn
đây không nằm ở hướng đông như vườn Eđen (x. St 2,8), mà chỉ là một vườn mơ,
bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy. Hạnh phúc của
nguồn trong trẻo mà loài người phải từ giã ra đi, và bị cấm cản đường về (x. St
3, 24). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia làm 4 nhánh, tưới vườn Eden
bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới hạn vì nguyên tội, khi
con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông gai và mùi cát bụi (x.
St 3,17-19). Bài tựa của Hàn Mạc Tử đã mơ ước khôi phục lại mùa xuân trinh
nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh hoa và châu báu, như nhũ hương và
bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (x. St 2,12). Thơ Hàn, cũng như lòng lê
thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất lực về một hạnh phúc sơ khai, một
tráng lệ đã phôi pha:
Còn
đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi
vị thơm tho một ái tình
Đố
kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hám của
kiên trinh
(Tr. 32)
Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế: từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy hoại tháp Babel, thành Sôđôma và Gômôra, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn hơi hám của kiên trinh:
Hồn
xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm.
(tr. 32)
Dân Do Thái lưu linh còn hy vọng có ngày tìm về Đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời xanh. Nhưng thơ Hàn Mạc Tử vẫn là một mơ ước, một đón đợi, như Cựu Ước là sự chờ đón Đấng Cứu Thế. Trong Gái quê và những bài đầu Đau thương, thơ là niềm mong đợi:
Trước
sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về.
(tr. 21)
Ngày xuân mong đợi, hồn nhiên và vô tư lự |
Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, còn là một mùa xuân ngoại đạo - một thứ printemps paen - hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả những hội hè của mùa xuân Việt Nam.
Trong
làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột
soạt gió trêu tà áo biếc
Trên
giàn thiên lý – Bóng xuân sang
Sóng
cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao
cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày
mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc
chơi.
Cái hồn hậu đó, như
Hoài Thanh đã nói “chỉ là một mùa xuân đầu năm”[12],
tôi nói thêm là một u minh đợi chờ để nở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời
đất mới dựng lên” hay mùa xuân tái tạo “ra đời một lần với Chúa Giêsu”[13].
Khác biệt đó không
có gì mâu thuẫn và Hoài Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ
“khó dễ vì một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại”[14].
Quách Tấn còn cực đoan hơn: “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần đậm
hơn đạo Thiên Chúa”[15]. Sự phân
lượng e rằng khó chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng
giáo trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không
có gì là nghịch lý cả; hạt mầm Thiên Chúa, khi nảy nở trên đất Sài Gòn thì tự
nhiên thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tôi có đọc tác phẩm của linh
mục Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ lạc Jorai, Cao nguyên Trung
phần. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhắm bảo vệ truyền thống một chủng
tộc: “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt giống bông vải gốc Phi châu,
năng suất cao hơn giống địa phương; dân Jorai đã gieo hái, nhưng chỉ một lần
thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc
nhuộm làm bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ bông nhập cảng. Họ lại trở lại
với giống bông cũ. Từ đó tôi không quên bài học bông vải”[16].
Và tôi lại càng không dám quên khi viết bài này. Theo Quách Tấn, gia đình Hàn
Mạc Tử (dường như) theo Thiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can
quốc sự nên đổi theo họ mẹ; rồi được một linh mục Pháp đỡ đầu, rồi lập nghiệp
tại Thừa Thiên, thân sinh Hàn Mạc Tử là Nguyễn Văn Toản học Đại Chủng viện Huế,
đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời[17]. Ông sinh
hạ được năm người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu. Tôi dài
dòng như vậy để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, một mảnh đất
mới đang hấp thụ đức tin, đang dần dần thấm nhuần ơn trìu mến:
Tôi
là trăng cổ độ
Lượng trời rộng bao la.
(Tr. 34)
Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích thước mông mênh; có thể là một trời thu man mác; có thể là một hàng cau nắng mới lên; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng, như đón từ xa. Như đợi từ xa:
Cho
ta nhận lấy không đền đáp
Ơn trọng thiêng liêng
xuống bởi trời.
(Tr. 44)
Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau thương: Tiếng thơ và cuộc sống. Chàng đã đem đến cuộc đời để trả lời ơn phước cả đang ngân vang trong mầu nhiệm phủ ban đêm, một tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ trụ trong Gái quê và những bài Đau thương đầu tiên nhuốm cái ý thức nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có tội trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh đồng ý rằng tập Gái quê thiên về dục tình; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người chỉ xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tình... đi tới đâu? Tôi xin giải thích thêm về điểm này:
Mới
lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni
cô.
(Tr. 29)
Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là cảm giác của Adam và vợ khi đóng khố che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (“Gen III, 7-8”) sau khi ăn trái cấm. Adam thẹn thò vì đã phạm tội. Còn trăng việc gì mà phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể đó, chúng ta đã thừa kế của Adam, cho nên tôi mới nói không khí rạo rực trong Gái quê là di sản của nguyên tội. Những câu thơ Vũ Ngọc Phan cho là “gợi tình, thiên về xác thịt”[18] là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là một cấm đoán, một ghẻ lạnh:
Da thịt trời ơi trắng
rợn mình.
Hàn Mạc Tử nhắc đến tình ái của ni cô, hay da thịt nàng dâu để gợi lên cái vô tội của mình trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý, dục tình, tự nó, không phải là tội lỗi: “Đó là một căn bệnh, chứ không phải là tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của một tội lỗi”[19] – tác giả muốn nói đó là nguyên tội; và “dục tình, bản năng sinh lý như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn”[20].
Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra ngoài vũ trụ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn trớn với yêu đương, tất cả tạo vật. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người yêu, tất cả đều có nhiều độ nồng nàn của da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân bởi trăm giây quyến luyến:
Trăng
nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi
gió đông về để lả lơi
Cây
lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị
Hằng ơi!
(Tr. 22)
Dục tình trong đoạn thơ nằm trước hết trong cách chọn chữ gợi tình, khi đi đôi với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ phong nguyệt hay gió trăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa; trong những hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường.
Đoạn thơ lại khêu
gợi bằng những hình ảnh táo bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây
tình; cuối cùng cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu đến sỗ sàng.
Tất cả những chữ, những hình ảnh, những ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành
một không khí lơi lả, vừa cợt nhả vừa tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải
là không khéo léo. Thơ gợi tình của Hàn Mạc Tử có lẽ táo bạo vào bậc nhất trong
thi ca mới; cái tài tình của ông là táo bạo đến đâu vẫn còn ý nhị. Một lối
suồng sã mà không sống sượng, như ở Xuân Diệu chẳng hạn:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề
đôi ngực...
Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không muốn nói. Ở Hàn Mạc Tử - ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay- dù hở hang đến đâu, vẫn còn cái úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tính từ. Chúng ta không còn những bài thơ như Hát Giã Gạo trong tập Gái quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “lợm giọng”, nhưng dù muốn dù không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn:
Cho
nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa
tới, còn xa để được buồn
Để
sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến
giai nhân.
(Tr. 28)
Đọc Hàn Mạc Tử ta có cảm giác một sự giằng co giữa con người phóng túng và con người khắc khổ? Cái giọng tình của ông, dù có cợt nhả đến đâu, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, một lối ái ân không tưởng, một môi giới giữa nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể tự mãn, trong một thế giới không tự mãn.
Vì vẫn còn là một
thế giới đợi chờ, trong im lặng linh thiêng, bằng tất cả trực giác của trăm sao
đắm đuối:
Không
một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao
băng.
(Tr. 27)
Một đêm thao thức đợi chờ Điềm lạ, trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn bị để đón mừng Ngôi Hai.
Hàn Mạc Tử mô tả
thế giới đợi chờ trước hết bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hoá ngoại đạo
nhưng niềm nở và hướng thượng, thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm;
hai phụ lưu sung mãn đó đã đổ vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, như một dòng sông vừa
nhận được cơn nước nguồn thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo:
bệnh phong nan y đã biến hồn thơ hồn hậu đó thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu
không phải là một vũng nước xoáy.
*
* *
Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay tiếng gầm
của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau thương trong cuộc
đời. Rồi trong thơ.
Hàn Mạc Tử nhuốm
bệnh từ năm 1936. Hăm bốn tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết. “Khi biết mình
mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày
những cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ
hết phát hiện ra ngoài một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn ngấm ngầm
nung nấu nạn nhân, nung nấu đến tột độ”[21].
Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những đớn đau của thân xác:
Thịt
da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến
vô biên.
(Tr. 53)
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng/ Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên |
Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mạc Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh: nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. “Hiện nay Trí về ở tạm nhà. Cái nguyên nhân là không tiền uống thuốc”... “Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng dọi nhiều quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ”[22]. Chúng ta còn có nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ, qua những bức thư gửi Trần Thanh Địch. Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khăng khít, thề bồi dữ dội lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Quy Nhơn; khi Hàn Mạc Tử chịu tang cho anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “thành tâm cư tang cho ông anh một năm cũng như anh, nghe anh” vì “người cầm bút biên mấy hàng trên đây là người em dâu chắc chắn, nhất định của ông anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu”[23]. Khi biết chàng lâm trọng bệnh, thì nàng “thề bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”[24].
Để rồi sáu tháng sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách. “Duy có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi”[25]. Quách Tấn cũng cho biết là thái độ của Mộng Cầm đã gây ra cho nhà thơ “một nỗi buồn thương vô hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, “những tiếng kêu rên thống thiết”[26].
Trời
hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió
trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm
sao giết được người trong mộng
Để
trả thù duyên kiếp phũ phàng.
(Trần Thanh Mại, tr. 95)
Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị con bệnh tàn phá đến thảm thê, theo thư một người bạn thân, cùng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào sâu hai lỗ hũm sâu hóm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn có da bọc lấy xương, chân tay thì co rút lại, mà đầu tóc bù xù rối trết lại từng về, trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư của ông Nguyễn Văn Xê, đề tại Quy Hoà ngày 25-6-1941)[27]. Tôi tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mạc Tử can đảm chịu đựng cái cảnh làm ta phải rùng mình, vui vẻ chịu đựng nữa là khác: Tuy cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy[28]. Niềm an vui đó, Trần Thanh Mại, người biết cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan chỉ biết Hàn Mạc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên: “một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ”[29]. An vui của Hàn Mạc Tử không phải là cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hớn hở:
Hôm
nay vui quá Anh Phùng ơi
Buồn
xa không đến, lệ không rơi
Buồn
không thắt ruột, tình không lại
Cười
nói làm sao cho hả hơi?
(Trần Thanh Mại, tr. 122)
Họ Trần phê bình là: “Đau thương giam cầm không kỹ, thoát lọt ra trong một biến thể mới, dị kỳ, quái gở, thật đáng rùng mình”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, theo tôi, là vì ông không hiểu được sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mạc Tử. Khi đề cập đến vấn đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh Mại, thừa nhận ngay: “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ”[30] còn họ Trần thì cứ phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta được một dữ kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ: “Trong khi sưu tầm tài liệu về nhà thi sĩ, tôi có tìm thấy trong một nhà trọ của chàng, một mẩu báo dán trên khung cửa sổ tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết ngay là báo Vì Chúa. Đoạn bài đăng trên mẩu báo ấy nói về nguồn an ủi trong bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do Đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng ta, nên chẳng những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà còn nên vui vẻ bằng lòng nữa”[31]. Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả không mấy thông thạo giáo lý Gia-tô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – Vì họ Trần mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật rất bậy là ưa bịa đặt tài liệu.[32] – thì chúng ta rất tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất xứ, tìm xem báo Vì Chúa số mấy, ngày mấy..., hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn. Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “sự đau ốm là do Đức Chúa Trời ban” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”. Nhưng vấn đề ở đây không phải là cãi nhau về giáo lý, vừa ngoài phạm vi bài viết và thẩm quyền của tôi. Vấn đề là, như Trần Thanh Mại đã nói, đức tin “đã có ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”. Quách Tấn xác nhận điều này: “Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt giày vò”[33]. Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của mình: “Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối khi ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì...”[34]. Đối với Hàn Mạc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ, Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lí: “Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng Đế”[35].
"Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt giày vò" |
Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái quê, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm lạ, đợi chờ Chúa ra đời thì Đau thương làm một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (x. Mt 24,42). Hàn Mạc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do Đức Chúa Trời ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói nhưng trước hết vì nó là hậu quả tất nhiên của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán trong tác phẩm về thống khổ: “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như một mãnh lực hợp-cứu-thế vì chúng ta tham dự vào đau đớn và huyết mạch của Chúa Kitô. Vậy không có vấn đề đau đớn mà chỉ có huyền nhiệm đau đớn của Chúa Kitô và trong sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói đến chấp nhận Đau thương mà chỉ nên nói đến gia nhập vào công đức cứu rỗi chúng ta không chấp nhận (accepter) vì nó là một định luật của thể xác; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền bản thân Thiên-Chúa-hiện-làm-người”[36].
Đoạn trên rọi sáng
lời truyền dạy của sứ đồ Phaolô trong thư gởi cho người Rôma: “Những đau khổ
hiện tại không có nghĩa lý gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong
mỗi chúng ta. Mỗi hình hài chờ đợi là một khát vọng sự thể hiện con cái Đức
Chúa Trời, với Mơ Ước được giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh
hiển của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên
xiết trong công trình thai nghén” (Rm 8,18-32). Đau thương hôm nay là
thai nghén cho ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý, Người đi trong
Mơ Ước... Người Kitô giáo quan niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu
hạn, trước Thượng Đế là một huyền nhiệm, vô hạn. Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn
Mạc Tử đã an vui được trong Đau thương - một hoàn cảnh thể xác, vật chất
và tinh thần làm chúng ta phải rùng mình - là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh
của xác tín. Có lẽ xác tín đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà
thơ. Trần Thanh Mại và Quách Tấn đồng ý “là mỗi lần chàng chết đi sống lại
(trong mấy năm bệnh chàng bị chết đi sống lại đến bốn năm lần) là chàng đều cảm
thấy có bà Thánh Nữ Đồng Trinh Maria đến cứu”[37].
Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ danh “Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh” được viết khi
Tử sống lại, trong cảnh đó[38].
Dù cho rằng mộng mị
chỉ là một biến thể của bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có
thể đi đến cội rễ của mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong
tâm hồn Hàn Mạc Tử, người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị một vinh hiển. Thật
ra, niềm tin vào cuộc sinh tồn mai hậu, của linh hồn, ở một thế giới khác,
không phải đặc biệt của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên
của dân gian, nước nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng ở một đời sống khác. Chỉ
nói đến vòng đai tôn giáo chung quanh Thiên Chúa, chúng ta đã có thể kể đến tư
tưởng Assiri, Babilon và nhất là Ai-cập, đều có niềm tin đó, như muốn Ra không
gian và vượt hẳn thượng tầng. Đức tin của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ mong hồn
tới tấp ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một Người ở cõi quá thinh gian;
Hàn Mạc Tử tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực không phải vì chiêm bao đẹp hơn
sự thực vì ứ đầy hơi khoái lạc mà chỉ vì:
Vì
có Đấng Hằng Sống, Hằng Ngự Trị
Nhạc thiêng liêng dồn
trổi khắp hư linh.
(Tr. 59)
"Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng Đế" |
Bài Ngoài vũ trụ, mà tôi đã trích các câu trên, tiếp theo hai bài Hồn lìa khỏi xác và Siêu thoát soi sáng ý nghĩa của những bài Đau thương và báo hiệu cho Quần tiên hội, Cẩm châu duyên và Xuân như ý. Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong thi phẩm của Hàn Mạc Tử không? Đặt dấu hỏi vì tôi ngờ rằng sự sắp xếp thứ lớp trong tập thơ không phải do thi sĩ, mà những người phụ trách tái bản thơ ông, tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng Miên gì đó. Do đó, tôi không dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc, như Marcel Ruf đã nói về “Architecture Secrète” khi trình bày nhất quán thi phẩm Les Fleurs du Mal của Baudelaire. Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bản Tân Việt, vì nó phản ảnh thứ tự biên niên trong quá trình sáng tác; tôi nghĩ ai bác bỏ thuyết cho rằng Gái quê sáng tác trước Đau thương; và Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ sáng tác sau cùng thời kỳ nhà thơ biết Thương Thương. Nhưng dù sao tôi cũng dè dặt mong các nhà biên khảo sau này có nhiều sử liệu đích xác hơn tôi, sẽ đào sâu cơ cấu mạch lạc của vũ trụ Hàn Mạc Tử, trên bình diện này hay bình diện khác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện thì càng đẹp.
Khi đề cập đến kinh
nghiệm đau thương của Hàn Mạc Tử tôi tiếc chưa được đọc bài của Võ Long Tê, một
chuyên gia về văn chương Thiên Chúa giáo về vấn đề này; nghe nói bài sắp sửa
đăng báo, tôi đợi hoài chưa thấy. Tôi cần nói thêm: Không riêng gì Phúc Âm,
những tín ngưỡng khác của người Á Đông cũng tìm một giải đáp cho đau thương;
Phật giáo thì cho đó là những đợt sóng triền miên của Mê hà hay Khổ hải; Lão
giáo thì cho đó là định luật của Vô Tri. Cái can trường của nhà thơ là do đức
tin vững chắc ở Đấng Cứu Thế, và đức tin đó đã được bồi dưỡng trong cái Dũng
của triết lý Đông phương lẫn cái kiên trì trong lòng dân tộc. Nói đến xác tín
của Hàn Mạc Tử không phải tôi không biết (hay tệ hơn nữa, tôi không nhớ) đến
những giá trị bằng hữu kia. Khi suy nghĩ về khổ lụy của nhân sinh, tôi đọc lại
kinh Coran của Hồi giáo thì có cảm giác như là họ không chấp nhận Khổ đau như
người Ki-tô giáo hay người Á Đông, vì họ cho là do sự hành hạ của Thượng Đế.
Vậy trong Hàn Mạc Tử có sự giao hoà giữa một đức tin sung mãn và một tâm hồn
niềm nở, tạo ra một nguồn thơ hết sức sâu xa.
Trong tinh thần Phúc
Âm, Hàn Mạc Tử đã sống trọn vẹn Đau thương của hiện thế, trước hết
vì đó là phương tiện Chúa đã dùng để Cứu Thế, thứ đến để chuẩn bị cho vinh hiển
mai sau, như lời giảng trên núi, sửa soạn cho Ngày sống lại với Đấng Hằng Sống,
Hằng Ngự Trị. Nhưng trên bình diện sáng tạo, quan niệm Đau thương đó đã
thể hiện ra sao? Tôi tiếc là không được đọc bài báo của Lê Tuyên về những chủ
đề trong thơ Hàn Mạc Tử, đăng trên tạp chí Đại học Sư phạm cách đây bảy
tám năm gì đó. Nay tôi lại đề cập vài hình tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mạc
Tử như Trăng, Máu, và Hồn.
*
* *
Trăng! Trăng! Trăng! Là
Trăng, Trăng, Trăng!
Đó là điệp khúc độc
điệu của một ngư phủ, theo lời kể của Quách Tấn. Đó cũng là khúc nhạc lòng của
nhà thơ. Trăng là một thứ ánh sáng vừa của nội tâm, vừa của ngoại giới. Ở đây
chúng tôi chỉ đề cập tới tương quan giữa những hình ảnh thi ca và đức tin.
Ảnh hưởng của đêm
trăng đối với bệnh phong đã được ông Trần Thanh Mại triển khai đầy đủ. Còn nét
quyến rũ muôn đời của ánh trăng đối với thi nhân thì viết bao nhiêu pho sách
cũng còn điều chưa nói. Nhưng không thể nói thơ Hàn Mạc Tử mà không đề cập tới
trăng, vì theo Trần Thanh Mại thì hai phần ba của tập Đau thương nói về
trăng, nửa phần còn lại nói về hồn[39].
Trăng, trước hết là ánh sáng tràn ngập cả vũ trụ Hàn Mạc Tử:
Gió
lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông chảy
láng lai
(Tr. 54)
Trăng là thứ ánh sáng êm dịu, mầu nhiệm phủ ban đêm, đối với ánh sáng chói chang bỏng rát của mặt trời nhiệt đới; Trăng tạo thi vị cho bóng tối tại những vùng nông nghiệp có sinh hoạt về đêm, và như Xuân Diệu kể, thì có “trăng của tình duyên, trăng của xa xôi, trăng của hão huyền” và trăng của “những đền đài mỏng thoáng”. Văn học của chúng ta từ xưa đến nay, vẫn le lói những ánh trăng bất tận. Tôi không dài dòng về địa hạt rộng rinh không bến này, chỉ muốn đề cập đến khía cạnh tượng trưng của ánh trăng trong giáo lý.
Trăng
trước hết là Ánh Sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh thánh, từ ngày thứ
nhất của Sáng thế, khi Đức Chúa Trời phân định ánh sáng và bóng tối (x.
St 1, 3-4), cho đến chương cuối cùng của Khải huyền, khi con người,
trong trời đất mới, hưởng được một ánh sáng miên viễn (x. Kh 22,5). Như vậy thế
giới di chuyển từ một vùng ánh sáng tương đối, ánh sáng vật chất đối với bóng
tối ban đêm, đến một ánh sáng tuyệt đối, ánh sáng vĩnh cửu ngay trong châu thân
Thiên Chúa, vì “Ngài là Sự Sống mà Sự Sống là Ánh Sáng” (Ga 1,4). Và quá trình
từ tương đối nọ đến tuyệt đối kia là sự phấn đấu không ngừng giữa ánh sáng và
bóng tối, tựa hồ như một cuộc phấn đấu giữa nguồn sống và cõi chết. Ở Hàn Mạc
Tử, ánh trăng là một thứ Ánh Sáng đang tương tranh cùng Bóng Tối, trong một tư
thế bi thảm, khác với mặt trời là chiến thắng – dù là tạm thời - của Ánh Sáng:
Ánh
trăng mỏng quá không che nổi
Những
vẻ xanh xao của mặt hồ
Những
nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư
vô.
(Tr. 30)
Mâu thuẫn tâm cảm
của nhà thơ là vừa yêu bóng đêm - vũ trụ Hàn Mạc Tử là một vũ trụ về đêm - vừa
yêu ánh sáng, và vươn tới một nguồn chói lọi:
Ta
ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn
ánh sáng
(Tr. 59)
Sự thật mâu thuẫn đó nằm trong những hình ảnh đa nghĩa của Kinh thánh, vì bóng tối cũng là một sáng tạo của Đức Chúa Trời. (St 1, 1-2) Quyển Điển ngữ Thần học Thánh kinh khai triển điểm tế nhị đó như sau: “Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm kép: hoặc nó xác nhận không có ánh sáng, hoặc bao hàm sự hiện hữu của ánh sáng. Con người muốn có ánh sáng tràn đầy nhưng tìm đến bóng tối; Chúa là ánh sáng, là lửa bỏng, mà cũng là bóng mát. Kinh thánh lý theo sự đa nghĩa đó”[40].
Chúng tôi muốn đề
nghị một ý nghĩa mới cho ánh trăng. Ở Hàn Mạc Tử trăng là một sự tương tranh
đồng thời tương ứng giữa ánh sáng và bóng tối, vừa tương khắc vừa tương sinh.
Trăng là Bóng Tối hết là Bóng Tối và Ánh Sáng chưa đủ là Ánh Sáng. Trong biện
chứng Sáng - Tối đó, tâm hồn Hàn Mạc Tử vẫn được xác định bằng Ánh Sáng, tức là
“con của Ánh Sáng” khác với con của bóng tối hay “con của Hiện Thế” (Lc 16, 8).
Vậy nhà thơ là Ánh Trăng, vì chàng là con của Ánh Sáng:
Không
gian đầy đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng
cũng trăng.
(Tr. 30)
Vì, bên dưới bình diện siêu hình, về mặt đạo đức, vẫn phải có sự phân biệt giữa bóng tối và ánh sáng (x. 2Cr 6, 14) giữa ánh sáng chân chính và giả trá (x. 2Cr 11,14).
Và tình ta sáng láng như
trăng thanh.
(Tr. 55)
Thỉnh thoảng Hàn
Mạc Tử không ngại mượn một vài hình ảnh của Kinh thánh để tả trăng, như:
Người
trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò
má riêng thôi lại đỏ hường
(Trần Thanh Mại, tr. 55)
Chúng ta liên tưởng ngay đến một câu của thánh vịnh 104, 2: “Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng như cái áo”.
Trăng trong Hàn Mạc
Tử không những là một thứ ánh sáng ảo huyền và hiu hắt. Nó có hình có trạng,
như một vật cụ thể khả xúc. Có khi là một món hàng – ai mua trăng ta bán
trăng cho – có khi là châu báu, là hơi nước chảy, hay là một người đàn bà,
mà tôi mường tượng phải đẹp lắm trong nhan sắc làm bằng Ánh Sáng và Im Lặng:
Tôi
lần cho Trăng một tràng chuỗi
Trăng
mới là Trăng của Rạng Ngời.
(Trần Thanh Mại, tr. 64)
Và nói chung, trăng là hồn, là máu của bóng đêm. Tôi có nói đến ba chủ đề, kỳ thật chỉ là ba tiết diện của một thế giới:
Gió
rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ
tan thành vũng đọng vàng khô
Ta
nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng
dậy điên cuồng mửa máu ra.
(Trần Thanh Mại, tr. 63)
Hình ảnh máu hoặc nhỏ từng giọt, hoặc ọc từng búng, hoặc đọng thành vũng, hoặc chảy thành sông, có lẽ là dấu hiệu của bệnh lý. Ý nghĩa của máu là cuộc sống vì máu mang sinh lực đến cho mỗi tế bào, mà đồng thời cũng là cõi chết, khi đã khô, đã đọng thành vũng máu đào trong ác lặn.[41] Về hình ảnh máu vẫn thường gặp trong thơ Baudelaire, Jean-Piere Richard viết: “Sự xuất huyết thiêng liêng ở chỗ nó hội tụ cuộc sống hiển nhiên và cái chết tàn nhẫn”[42]. Máu là cuộc sống đang chết, hay là cái chết tiềm ẩn trong cuộc sống. Máu là hồn của thể xác mà cũng là xác của linh hồn, nói khác đi máu là thơ:
Ta
muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi
lời thơ đều dính não cân ta
Bao
nét chữ quay cuồng trong máu vọt
Cho
mê man chết điếng cả làn da
Cứ
để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải
niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng
nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả
lòng ai trong mớ chữ rung rinh.
(Trần Thanh Mại, tr. 58)
Máu, cũng như thế, vừa là một hành hạ, vừa là một giải thoát. Chúng ta vẫn thường gặp những hình ảnh máu trong Kinh thánh: Máu là nguyên lý sự sống, nhưng khác với linh hồn ở chỗ máu là thành phần hư nát của cơ thể, còn linh hồn vẫn tồn tại đợi ngày Phục Sinh [4]. Từ máu Cứu Thế trên Thánh Giá đến máu chiên con, hình ảnh của đau đớn, của hư nát lại là hình ảnh của Hy Vọng; máu của chúng sinh tuy không vào được nước Đức Chúa Trời (1Cr 15, 50) vẫn là một môi giới, một phương tiện, một ánh sáng, một thẩm mĩ:
Và
ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở
nang.
(Tr. 38)
Trong bài “Biển hồn ta” (tr. 52) bắt đầu bằng câu Máu tim ta tuôn ra làm biển cả..., người đọc có cảm giác như máu và hồn là một, hay máu là hồn của xác thịt còn thể phách là hồn của toàn cơ thể, vì chính nhà thơ cũng phân biệt hồn ngoài và hồn trong:
Hồn
hãy thoát ly ra ngoài tâm tưởng
Là
hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong
Cứ
để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng
Ngao
du cùng khắp cõi trí mênh mông
...
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng
nguyệt cầu xa...
Đã là hồn rồi mà còn có tử thi nữa sao? Lại còn ngắm được tử thi của mình nữa sao? Ở đây, ngoài sự phân biệt “hồn” và xác cố hữu trong tiềm thức người Sài Gòn, ta còn phải ghi nhận thêm ảnh hưởng phong thổ vùng từ Quy Nhơn đến Phan Thiết nơi Hàn Mạc Tử sống, vùng đất của người Chàm. Nhà thơ thế nào cũng nghe chuyện ma Hời đêm đêm lìa khỏi xác đi chơi hay ăn đêm, và đã nhớ đến những chuyện đó trong cơn mê sảng bệnh hoạn. Nhưng trong Thánh kinh, nhất là Cựu Ước, chúng ta còn bắt gặp dấu tích sự phân biệt đó, bắt nguồn từ tư tưởng Do Thái giáo, Thân thể, tiếng Hébreu (Do Thái) gọi là basar, dịch ra Latinh là caro, thành tiếng Pháp là chair. Xác thịt, nếu không có sinh khí, chỉ là một “tử thi”. Hơi thở của Jahweh đã hà sinh khí vào xác thịt, nhưng chỉ tạo nên một quân bình mong manh: “thần khí của ta sẽ không lưu lại mãi trong loài người, vì loài người chỉ là thân xác” (St 6, 3); vậy trong tư tưởng Do Thái giáo, chẳng những hồn và xác khác biệt nhau, mà hồn là thần khí mà Đức Chúa Trời ký thác vào thân xác con người đó thôi, chứ không hẳn của con người. Do đó, trước khi chết, Chúa Giêsu đã nói “Thưa Cha, trong tay Cha con trả lại linh hồn” (x. Lc 23, 46) và Huy Cận đã nhắc lại trong câu Lạy Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi... Linh hồn đó, là cái thần khí của Jahweh nay trở về với Jahweh, chứ không phải là cái hồn lìa khỏi xác của Hàn Mạc Tử. Hồn này lại là một chuyện khác, một biểu hiệu của sự sống; hồn này có thể chết, có thể hư nát như thịt xương (Tv 78, 50) lang thang xuống âm ty sống đời khổ ải, cho đến ngày Thượng Đế cho lịnh hồi sinh những đống xương tản mác[43]. Trong những lời truyền dạy của Thánh Tự, Hàn Mạc Tử đã nhớ những chi tiết phù hợp với tâm hồn hay bệnh trạng mình nhất, nghĩa là sự phân biệt giữa hồn và xác, trong khi giáo lý Thiên Chúa về vấn đề này, phức tạp hơn nhiều.
Vì nhà thơ, trong cơn hành hạ của bệnh lý dĩ nhiên là tìm cách giải thoát, dù chỉ bằng mê sảng:
Thịt
da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi
đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi
dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên
tới ngực.
(Tr. 53)
Ở đây, ta bắt gặp hình tượng Trăng, Hồn và Máu dồn dập lại trong tương quan chặt chẽ: nhà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, hay điên cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng ta trăng là trăng, cả ba hình ảnh đều oà vỡ từ thân xác, và từ thân xác Đau thương. Hàn Mạc Tử đã dùng thơ để sống trọn vẹn tín lý của mình. Chàng đã thấy hồn mình trong máu vọt, và hồn mình chính là máu đang tuôn trào lênh láng; chàng đã ghi lại những cảm giác rùng rợn đó, bằng những hình ảnh ta đã gặp trong Cựu Ước: hồn trong máu (Lv 17, 10) hồn là máu (Lv 17, 14), một thứ máu luôn luôn vươn đến ánh sáng, như hình ảnh Đức Chúa Trời chói chang trong tấm áo dệt bằng ánh sáng trong Thánh vịnh (Tv 104, 2) và đẫm máu chiên con trong Khải huyền (Kh 19, 13). Máu chiên con trở thành Ánh Sáng, và chiên con là ngọn đèn bất diệt của Giêrusalem mới. Do đó, tôi nói Hồn, Máu và Trăng chỉ là ba màu sắc chiết quang của một Ánh Sáng Duy Nhất. Người đi trong Mơ Ước. Trong mơ ước, Hàn Mạc Tử đã gọi Ánh Sáng Khải huyền ấy là Xuân như ý.
*
* *
Cho mau lên! dồn ánh
nguyệt vào đây...
Đưa ra, nào là nhạc
thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm...
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao!...
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao!...
Phải mời cho được Xuân
Thiêng ra đời.
(Tr. 65)
Như vậy Xuân Thiêng ở đây phải là một mùa xuân khác. Không còn là mùa xuân phảng phất ngày xưa trong làn nắng ửng khói mơ tan. Tuy là trời hạo nhiên trong thế giới đợi chờ của Gái quê cũng là một công trình châu báu, do phép tắc mầu nhiệm của đấng Vô thỉ Vô chung, nhưng là một thế giới hư nát, sẽ vỡ lở, sẽ chấm dứt. Vì công trình châu báu của Thượng Đế, sau khi con người tự dấn thân vào tội ác, cũng đồng thời là một sự phẫn nộ của Thượng Đế; mặt đất, nguyên là Quê Hương của loài người đã trở thành một Lưu Đày, không còn là vườn Địa Đàng long lanh nhũ hương và bích ngọc, cũng không phải là Đất Hứa óng ánh sữa thơm và mật ngọt; trên mặt đất, lúa tốt còn mọc lẫn với cỏ hoang, trái lành ửng chín trong gai bụi, và lương thực loài người còn trộn lẫn cát bụi với mồ hôi; và con người không những thịt da sượng sần và tê điếng mà còn nứt nẻ như muốn tan rã ra cùng vũ trụ, làm cho mê lẫn máu và hồn ta là ta hay không phải ta. Thế giới hiện tại, tuy vẫn có thanh sắc, nhũ hương, vẫn mang sẵn mục nát trong mầm sống. Và mầm sống đó, có sung mãn đến đâu, thì nhà thơ vẫn lòng thương chưa đã mến chưa bưa, nên phải mời cho được Xuân Thiêng.
Chúng ta chưa quên được Người đang say sưa đi trong Mơ Ước đã gặp ở trang đầu. Vậy Xuân Thiêng đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được phục hồi trong cảnh trời mới đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng. Những thi phẩm cuối cùng của Hàn Mạc Tử như Xuân như ý gom góp xong đầu năm 1939, Thượng thanh khí đầu năm 1940, gồm hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội viết dở dang, đều nói lên niềm Mơ Ước đó. Trong bài này, tôi tạm xếp ba tác phẩm trên cùng những bài cuối tập Đau thương vào chủ đề Xuân như ý, cho gọn, và như một giai đoạn trong thi trình Hàn Mạc Tử.
Mùa Xuân Thượng Thanh, đó ra sao? Về chủ đề mơ ước trong Thánh kinh, một chuyên gia về giáo lý Thiên Chúa nhận xét: “Cuộc sống vĩnh viễn được xác nhận rõ rệt bao nhiêu, thì những đường nét của nó lại mờ nhạt bấy nhiêu. Không những mờ nhạt, mà đôi khi còn thiếu sót. Sự tồn sinh không được mô tả, dù dưới những hình ảnh Khải huyền”[44].
Lẫn trong mơ hồ đó, nhà thơ tha hồ mà tưởng tượng quang cảnh trời đất mới. Nếu Xuân như ý còn nhiều hình ảnh dựa theo tín lý Thiên Chúa, thì Cẩm châu duyên lại gần với huyền tượng của dân gian phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo - một thứ Đạo giáo bình dân, không ăn thua gì đến cái “đạo khả đạo” của Lão Tử. Vì vậy Hoài Thanh cho rằng Hàn Mạc Tử “chốc chốc lạc vào thế giới đồng bóng”. Thật ra trong cái hoa hoè của dự tưởng, nội dung nòng cốt của Xuân như ý vẫn là một tín điều Thiên Chúa giáo.
Trước hết đó là một mùa Xuân. Nghĩa là một thế giới mới, một khung cảnh tái tạo, như cảnh thành Giêrusalem mới được thánh Jean rao truyền ở chương cuối Phúc Âm, Trời mới đất mới được dựng lên trên cảnh trộn trạo, tán loạn của ngày tận thế:
Cả
vũ trụ tàn theo ngày Phán xét
Là khủng khiếp cả Trời
Đất tiêu diệt.
(Tr. 60)
Mùa Xuân đó ở xa. Ở thật xa nếu nhìn từ thế giới hồn nhiên của Gái quê:
Cửu
Trùng là chốn xa xôi ấy
Chim én làm sao bay đến
nơi.
(Tr. 37)
Nhưng kinh nghiệm Đau
thương, kinh nghiệm của xác tín trong khổ não, đã chắp lên thân xác nứt nẻ
của nhà thơ đôi cánh phượng hoàng. Bằng những bất hạnh, Hàn Mạc Tử đã đến gần
với Chúa và gần với mùa xuân Mơ Ước hơn là cánh én bơ vơ:
Phượng
trì! Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì!
Thơ
tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bây giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.
(Tr. 78)
Trong bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria” này, với nguồn rung cảm mãnh liệt của đức tin, nhà thơ đã sống cả thế giới hiện tại lẫn mùa xuân dự tưởng, đã nói đến cơn lâm luỵ đã trải qua dưới thế như là một quá khứ. Và trong đức tin đó, nhà thơ đã vẽ cho ta địa hình của Đất Mới, trong bài tựa tập Xuân như ý:
Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mĩ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc Như Ý, tên xuân là Dạ Lan Hương.
Và xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời, chân lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả dải Hà Sa, chen lấn vô tận hồn tạo vật...
Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng... (tr. 66)
Chúng ta thử khai triển vài nét chính của Xuân như ý.
Chúng ta đã thấy đó là mùa xuân hồi sinh, sau khi “trời thứ nhất, đất thứ nhất
tan biến” (Kh 21,2). Như đặc biệt mùa xuân này nảy lộc từ mùa đông, nhưng sẽ
không bao giờ chuyển sang mùa hạ Mai nầy thiên hạ mới tinh khôi... Và sẽ
còn tinh khôi mãi mãi, vì đã đi vào cõi tứ thời xuân non nước. Trong Cẩm
Châu Duyên nhà thơ gọi là Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước và mô
tả như một tia sáng triền miên:
Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làm nước mát và chưa bao giờ gợn
Vết phong trần đưa lại ở xa khơi
(Trần Thanh Mại, tr. 147)
Đoạn cuối Khải huyền truyền giảng rõ ràng. Đất Mới đây, là châu thân Thiên Chúa; mùa xuân của Hàn Mạc Tử trường sinh bất tử, năm của muôn năm, vì ở Khải huyền, Chúa đã kết luận: “Ta làm mới mọi vật. Ta là Alpha và Oméga, là nguyên lý và cực chung” (Kh 21, 5-6).
Xuân như ý tiếp đến là một vũ trụ thơm tho và tinh
khiết vì là càn khôn mới dựng lên. Ở đây, nhà thơ như rợn ngợp trong
trinh nguyên của Đất Mới, mà tượng trưng là con chiên con vô tật và vô tội, làm
ngọn đèn trinh bạch rọi sáng cả hoàng thành. Thi sĩ vội nguyện cầu gội rửa:
Tôi
van lơn thầm gọi Chúa Giêsu
Ban
ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối
Xin
tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ
lên trăng.
(Tr. 74)
Và để ngợi ca vinh
hiển của Nguồn thơm, nhà thơ đã cao ngâm giọng long lanh, thanh thoát:
Ta
cho ra một dòng thơ rất mát
Mới tinh khôi và thanh
sạch bằng hương.
(Tr. 70)
Theo Hoài Thanh - người may mắn hơn chúng ta, được đọc toàn bộ thi phẩm – thì Cẩm châu duyên, thi phẩm cuối cùng, là “trong trẻo hơn cả”[45]. Âu cũng là chuyện lạ. Gái quê, từ ban sơ, đã là một dòng suối rừng vẩn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên chở không biết bao nhiêu trần lụy, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ ra đại dương bằng một giải Cẩm Châu trong vắt. Thật là một đặc điểm trong thẩm mĩ thi ca.
Đất Mới còn là một
xứ rực rỡ, cao sang, vì xuân mang tên một loài Ngọc:
Ánh
hào quang chan chói ngắt lưu ly
Ôi!
Cao sang khôn ví, trọng ai bi
Trên nước cả có vô vàn
châu báu.
(Tr. 67)
Những hình ảnh tráng lệ như gấm, ngọc, trân, châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn gợi lên một vinh hiển, như khi sứ đồ tả thành Giêrusalem mới trong Khải huyền: “Thành ấy chói sáng như một viên bửu thạch, như bích ngọc rạng ngời... Tường thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thuỷ tinh trong vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (Kh 21,11.18.21). Dựa theo Khải huyền, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mạc Tử là một phóng thể của đức tin Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó.
Cuối cùng Xuân
như ý là một thái hoà tuyệt đối, trong không gian và thời gian, thái hoà
của năm muôn năm, trời muôn trời. Ở đó, trời thì bình an như nguyệt bạch, còn
người thì hoan hảo, no nê nhờ trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm. Còn nói chung:
Thiên hạ thái bình và
trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.
(Tr. 71)
Ở đây, sầu đau chìm trong quên lãng. Đất Mới không còn cảnh “chết chóc, than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa” (Kh 21,4) vì những lâm luỵ dưới thế đã qua. Ở đây tất cả đều là ánh sáng. Và ánh sáng là linh thị cuối cùng bao trùm trọn vẹn thi trình Xuân như ý, đồng thời rọi lại toàn bộ tác phẩm Hàn Mạc Tử như một Thánh thể kết tinh triền miên vươn tới Ánh Sáng, vươn tới Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly. Hay trở về Ánh Sáng. Ở đây, chúng ta đi sâu vào ngõ ngách cuối cùng trong đức tin Hàn Mạc Tử:
Ta
ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn
ánh sáng
Tôi sẽ dừng lại ở
đây, dừng lại ở hình ảnh Nguồn Ánh Sáng, vừa là một vươn tới, vừa là một
trở về, Mùa Xuân như ý đẹp trước hết vì là Xuân thứ đến vì nó là Như
Ý, nó đưa con người về với Chúa, về với Nguồn. Vậy Nguồn Ánh Sáng
ở đây là Alpha và là Oméga, vừa là cội rễ vừa là cứu cánh con người. Và cơ cấu
thơ Hàn Mạc Tử do đó gói ghém cả mặc khải Thánh Tự lẫn lịch trình Cứu Rỗi. Tôi
có cảm giác đã làm xong một bài luận mạch lạc. Bây giờ là hết.
*
* *
Tham vọng của tôi
trong bài này là đề nghị một lối nhìn nhất quán vào tác phẩm Hàn Mạc Tử trong
giới hạn những bài thơ còn lưu truyền, nghĩa là trên một sự nghiệp bị thời gian
cắt xén. Khai quật cơ cấu nội tại của sự nghiệp đó, chúng tôi lại còn mong ước
rọi sáng những bài, những câu thơ mà các nhà phê bình xưa nay, từ Trần Thanh
Mại đến Vũ Ngọc Phan, cả thi sĩ Quách Tấn đều cho là khúc mắc. Theo chúng tôi,
hiểu tất cả các câu thơ, các bài thơ trong một tập thơ, chưa hẳn đã là hiểu
toàn bộ tập thơ, ít nhất cũng đối với người viết phê bình. Chúng ta còn phải
hiểu liên hệ nội tại trong mỗi tập thơ để nắm vững cơ cấu sáng tạo của thi sĩ –
ít ra cũng trong chủ quan người đọc.
Liên hệ nội tại đó, tôi đặt trên đức tin của Hàn Mạc Tử. Tôi cũng có thể đề nghị một nền tảng khác; tôi chọn chủ đề này với một dụng ý: giải thích những nhận xét cố hữu của các nhà phê bình tiền bối vẫn cho Hàn Mạc Tử là nhà thơ Thiên Chúa giáo, mà không nói rõ, nói đầy đủ, tại sao. Các vị đó thường trích dẫn những bài thơ hay câu thơ có âm vang tôn giáo, có hình thức tín ngưỡng như Maria linh hồn tôi... rồi kết luận; theo tôi, thì chưa đủ, vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên Thánh, làm thơ ca tụng đấng Tối Linh, như ngày xưa các cụ Nguyễn Hữu Tiến hay Tản Đà nhắc đến Thượng Đế trong Quả Dưa Đỏ hay Giấc Mộng Con. Theo tôi, chúng ta chỉ có thể nói đến tín lý trong một tác phẩm khi toàn bộ tác phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu. Nói khác đi, một người Thiên Chúa giáo chưa hẳn là kẻ đọc kinh vanh vách, mà là người đem trọn cuộc đời mình đáp lại lời gọi của ơn Trên, và một thi sĩ Thiên Chúa giáo không hẳn là kẻ tự xưng là thi sĩ của đạo quân Thánh giá (tr. 71) như Hàn Mạc Tử đã tự nhận, mà là kẻ đem cả sự nghiệp thi ca của mình âm vọng lại tiếng gọi của Thượng Đế. Và dĩ nhiên không phải là kẻ “dùng thơ để truyền bá tôn giáo của mình” như Quách Tấn nhận định ở trang 118 số Văn thượng dẫn. Do đó mà tôi cố gắng chứng minh toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của Thánh Tự.
Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mạc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam. Tín ngưỡng Thiên Chúa đã nảy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì hồn thơ Hàn Mạc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau, như Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật 29-11 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông: “Chúng ta đang ở một vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới mẻ hơn Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau”[46].
Và bạn đọc sẽ hoan hỉ nếu Quách Tiên sinh thủ lời hứa “nói về đạo Từ bi trong thơ Tử” vì sẽ hiểu thêm một khía cạnh của thi phẩm, qua kiến thức uyên bác của tiên sinh về phương diện Phật lý cũng như tác phẩm Hàn Mạc Tử.
Val de Loire,
12-1970
ĐẶNG TIẾN
(Đã đăng tạp chí Văn, Sài
Gòn, số 179, ngày 1-6-1971 – Lấy lại theo PCĐ II, 393-417).
Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 288-316.
[1] Vũ Ngọc
Phan. Nhà văn hiện đại III, 1942 – ấn bản 1951. NXB Vĩnh Thịnh, Hà Nội,
tr. 326.
[2] Hoài
Thanh và Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, Thiều Quang tái bản, Sài Gòn
1967, tr. 204.
[3] Văn, số
đặc biệt về Hàn Mạc Tử, 73-74, ngày 7-1-1967, tr. 139.
[4]
Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử. Tân Việt tái bản, Sài Gòn, 1957.
[5] Vũ Ngọc
Phan, Sđd, tr. 63-83.
[6] Quách
Tấn, Văn. Sđd, tr. 141-148.
[7] Thơ Hàn
Mạc Tử đều trích từ ấn bản Tân Việt, Sài Gòn, 1959 – ấn bản này không đánh số
trang, tôi dựa theo mục lục mà ghi số trang để bạn đọc dễ kiểm chứng.
[8] Huỳnh
Phan Anh, Văn, số 73-74. Sđd.
[9] Vũ Ngọc
Phan, Sđd, tr. 322.
[10] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 212.
[11] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 212.
[12] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 211.
[13] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 212.
[14] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 212.
[15] Văn,
số đặc biệt về Hàn Mạc Tử, Sđd, tr. 120.
[16] Jacques
Dourne, Dieu aime les Paiens. Aubier, 1963, tr. 149.
[17] Văn.
Sđd, tr. 47.
[18] Vũ Ngọc
Phan, Sđd, tr. 326.
[19] J. E.
Kerns SJ, Les Chrétiens, le Mariage et la Sexualité. Edit. Du Cerf,
Paris, 1966, tr. 93.
[20] J. E.
Kerns SJ, Sđd, tr. 94.
[21] Quách
Tấn, Văn, Sđd, tr. 81
[22] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 73
[23] Thư
Mộng Cầm, do Trần Thanh Mại trích, Sđd, tr. 94.
[24] Thư
Mộng Cầm, do Trần Thanh Mại trích, Sđd, tr. 94.
[25] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 95.
[26] Quách
Tấn, Văn, Sđd, tr. 88.
[27] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 193.
[28] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 124.
[29] Vũ Ngọc
Phan, Sđd, tr. 330.
[30] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 212.
[31] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 120.
[32] Nguyễn
Công Hoan, Tạp chí Văn nghệ Hà Nội, số 67, tháng 12-1962 và số 68, tháng
1-1963 về Tú Xương. Tôi đã có đề cập tới trong Văn, số 163 ngày
1-10-1970.
[33] Quách
Tấn, Văn. Sđd, tr. 116.
[34] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 120.
[35] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 211.
[36] Charles
Journet, Le Mal, essai théologique, tủ sách giáo lý. Desclée de Brouwer.
Bruges, Bỉ, 1961, tr. 271.
[37] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 130.
[38] Quách
Tấn, Văn, Sđd, tr. 75.
[39] Trần
Thanh Mại, Sđd, tr. 62.
[40] Vocabulaire
de la Théologie Biblique. Edit. Du Cerf. Paris 1962, tr. 714.
[41] Jean
Pierre Richard. Poésie et Profondeur. Seuil. Paris, 1955.
[42] P.
Dhorme. Revue Biblique, số 4, tháng 10-1920, tr. 473-474. Loạt bài
L’emploi métaphorique dans la Bible, chuyện về hình ảnh của thân xác rất cần
cho việc tìm hiểu thơ Hàn Mạc Tử.
[43] Vocabulaire
de la Théologie Biblique, Sđd, tr. 31.
[44] Jacques
Quillet, tủ sách giáo lý, Thèmes Bibliques, Aubier, 1950, tr. 175.
[45] Hoài
Thanh và Hoài Chân, Sđd, tr. 124.
[46] Le
Monde, Số ngày 1-12-1970, tr. 8, cột 1.