Hồn thơ siêu thoát

Quang X Nguyen

Hàn Mạc Tử chỉ lạ hóa ngay cái thiên nhiên sát kề bên mình
Hàn Mạc Tử chỉ lạ hóa ngay cái thiên nhiên sát kề bên mình

Qua Lửa thiêng và qua các tập thơ in sau năm 1945, Huy Cận thường được coi là người có hồn thơ mở ra đến vũ trụ.
Giới thiệu thơ ra nước ngoài, Chế Lan Viên bảo Huy Cận vốn “thích các thế kỷ, thích các vòm trời”, còn Xuân Diệu từ 1940 đã cho là ở người bạn mình có cái “nghiêng tai kỳ diệu”.
Nhưng xem ra, thơ Huy Cận vẫn quá lành, con người trong thơ Huy Cận ở ngoài mà chưa đạt tới sự hòa nhập với vũ trụ, chưa bao giờ cả gan lang thang đi tìm bí mật của cái vũ trụ hoang đường như trong thơ Hàn Mạc Tử.
Huy Cận dễ dàng bắt gặp ở thiên nhiên một sự thông cảm. Vũ trụ trong thơ Huy Cận khô ráo, trong sáng, thanh sạch, và thật dễ dàng chấp nhận con người. Đây là một bài thơ tiêu biểu:
Trời xanh ran lá biếc
Biển chóa ngợp buồm vàng
Gió thổi miền bất diệt
Mây tạnh đất hồng hoang.
Về phần mình, Hàn Mạc Tử không có điều kiện mà cũng không tính chuyện lấy thơ mình ra đối diện với cả không gian, thời gian cao rộng. Hàn Mạc Tử chỉ lạ hóa ngay cái thiên nhiên sát kề bên mình. Nhưng, đó là cái thiên nhiên ma quái, bí mật, thiên nhiên ướt át nhày nhụa lại nhiều bóng tối và những khoảng trống kỳ lạ, khiến người ta sống trong đó không bao giờ cảm thấy yên ổn. Cảm giác về sự hài hòa, rất quen thuộc trong thơ Huy Cận. Bao gồm ở Lửa thiêng là cái tự bằng lòng, cái thanh thản thoải mái khi tiếp xúc với vũ trụ. Cảm giác ấy hết sức xa lạ với Hàn Mạc Tử. Luôn luôn ở Hàn Mạc Tử chỉ là xao xuyến bồn chồn, tưởng là mất mà lại thấy, tưởng là cầm nắm được mà lại trôi đi bay biến.
Thỉnh thoảng, có nói đến Thượng Đế thì Huy Cận đã biết ngay rằng Thượng Đế sẽ an ủi, vỗ về tâm hồn mình.
Hàn Mạc Tử không tính chuyện kéo Thượng Đế về với cuộc sống phàm trần mà chơi vơi đuổi theo Thượng Đế và trong cuộc truy đuổi đó, sẵn sàng thánh hóa.


Vương Trí Nhàn
(Trích từ bài Hồn Thơ Siêu Thoát, trong PCĐ-2, trang 485-493)


Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 216-217.