Chúng tôi đã viết
về vấn đề này trong bài Hàn Mạc Tử sống mãi với thời gian, mở đầu cuốn Thơ
văn Hàn Mạc Tử - Phê bình và tưởng niệm (1993). Sau đây là những ý kiến
dường như đã thống nhất trong các nhà phê bình và nghiên cứu văn học.
Trong bài Nguồn
thơm, Hàn Mạc Tử tự xưng mình là “thi sĩ của đạo quân Thánh giá” nhưng
trong thực tế, Tử là một nhà thơ thuần tuý, không phải là nhà thơ của bất kỳ
tôn giáo nào. “Tử là một nhà thơ đi vào vườn hoa tôn giáo chỉ để tìm hương phấn
về ướp cùng hương thơ đó thôi” (Quách Tấn). Chính Hàn Mạc Tử đã có lần tâm sự
với Quách Tấn: “Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật – đó chỉ muốn làm
giàu cho nền văn chương chung” (Ảnh hưởng của đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử).
Nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật của Việt Nam và thế giới (những pho tượng La Hán chùa Tây
Phương, bài thơ Ave Maria của Hàn Mạc Tử, những tác phẩm của Michel
Ange....) tuy viết về đề tài Phật giáo và Thiên Chúa giáo nhưng vẫn mang tính
nhân dân, mang nội dung hiện thực. Bởi vì từ trước tới nay, con người vẫn xây
dựng chân dung các vị thánh trên Thiên đình bằng những nguyên mẫu dưới trần
thế. “Chất đốt đẩy tên lửa của Tử lên Thượng thanh khí, lên Phượng Trì, lên sát
những mũ triều thiên, té ra là tình cảm, là ân nghĩa từ mặt đất” (Chế Lan
Viên).
Hàn Mạc Tử nghệ sĩ
bao giờ cũng phóng túng hơn, hào hoa hơn Nguyễn Trọng Trí tín đồ. Các hình ảnh
và sự tích của Phật Giáo, Thiên Chúa giáo (như trong các bài Ave Maria, Đêm
xuân cầu nguyện, Nguồn thơm, Ra đời....) một khi vào thơ Tử
đều được thi vị hóa, lãng mạn hóa, mất dần tính cách trang nghiêm, tuyệt đối
của tín điều kinh điển.
Chúng ta đồng tình
với Phan Xuân Sanh khi ông viết: “cái thói ngang tàng, bừa bãi xưa nay vẫn là
thói chung của các nhà thơ. Hàn Mạc Tử quỳ trước Thánh Maria, chúng ta có cảm
tưởng như ông đã quỳ trước nàng thơ và hình ảnh nàng thơ với hình ảnh Ave
Maria đôi khi chỉ là một, rồi thi sĩ nghiễm nhiên biến thành vai trò “Giáo
chủ” giữa một lúc cầu nguyện trong đêm xuân” (Ảnh hưởng Phật giáo trong thi
ca Việt Nam). Cũng như các nhà văn lãng mạn Thiên Chúa giáo, Hàn Mạc Tử xem
thi sĩ là một loại người đặc biệt trên cõi đời này, là kẻ môi giới giữa Chúa và
loài người. Hàn luôn luôn ý thức được vị trí cao trọng của Thi sĩ trong mọi
hoàn cảnh:
Nhớ
khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ
cánh bay chín tầng trời cao ngất
Ta
trở nên như ngọc đàng Kim mã
Rất
hào hoa rất phong vận: Người Thơ
(Phan Thiết! Phan Thiết)
Hàn Mạc Tử đi trốn
ở một túp lều tranh dột nát, “một lều trăng gió ngó lôi thôi” nhưng Hàn Mạc Tử
vẫn gọi là “Lều tranh ông Hoàng”. Có lúc Hàn tự mỉa mai mình là tên hành khất:
Lãng
tử ơi! Mi là tên hành khất
May
không chết lạnh trước lầu mỹ nhân
Ta
đi tìm mộng tầm xuân
Gặp
vua nhà Nguyễn bay trên mây
(Lang thang)
Mộ Hàn Mạc Tử ở Ghềnh Ráng (Gành Ráng) |
Nghệ sĩ luôn luôn
phóng túng, ngang tàng, vượt ra ngoài những quy phạm của tôn giáo, vì thế mà
phạm thượng. Quách Tấn, Võ Long Tê, Chế Lan Viên, Phan Xuân Sanh đều nói thế.
Phan Cự Đệ cũng nói thế khi viết về Hàn Mạc Tử, Michel Ange. Đôi khi, bị cảm
hứng lôi cuốn, bị thăng hoa xuất thần, Tử đã viết ra những lời có thể nói là
phạm thượng đối với những Đấng thiêng liêng mà Tử phụng thờ:
Ta
chắp hai tay, lạy quỳ hoan hảo
Ngửa
trông cao cầu nguyện trắng không gian
Để
vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở
một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
(Đêm xuân cầu nguyện)
Có
lúc Hàn Mạc Tử viết:
Ta
khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Cho
bay lên hí hửng với ngàn khơi
(Say trăng)
Chế Lan Viên bình:
“Hồn, đó là sản phẩm của anh tạo ra, lại còn dắt nó đi chơi nữa: “Dắt hồn đi
ròng rã một đêm nay” – Anh có bạn. Hàn Mạc Tử không còn thụ động là sản phẩm
trong bàn tay Thượng Đế, tự anh, anh đã chủ động đóng vai trò Thượng Đế, hơi
phạm thượng đấy, nhưng vui chứ, đỡ cô đơn chứ” (Hàn Mạc Tử, anh là ai?).
Thư thứ bảy gửi
giáo hội Laođixêa (Kinh thánh) có
chép chuyện Chúa khạc ra người: “Ta biết các công việc của con, con không lạnh
cũng không nóng, ước chi con lạnh hẳn hay nóng hẳn thì hơn. Bởi con chỉ âm ấm,
không lạnh cũng không nóng, nên Ta sẽ mửa con ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,
15-16)[1].
Chúa “khạc” ra
người được thì chàng thi sĩ phạm thượng cũng “khạc” ra người được chứ sao:
Cả
miệng ta trăng là trăng
Cả
lòng ta vô số gái hồng nhan
Ta
nhả ra đây một nàng
Cho
mây lặng lờ cho nước ngất ngây
(Một miệng trăng)
Gần đây có người
muốn dùng thơ Hàn Mạc Tử để chứng minh Đức Tin Thiên Chúa giáo, chúng tôi đặc
biệt chú ý đến bài Thấy được những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện tượng
Hàn Mạc Tử của linh mục Dũng Lạc Trần Cao Tường. Bài viết đã mở ra một
hướng nghiên cứu mới về thơ Hàn Mạc Tử. Tác giả muốn giải thích những bí ẩn
đằng sau “những ý tưởng và hình ảnh lạ lùng vượt qua ngôn ngữ loài người” và vì
sao thơ Hàn Mạc Tử lại có chuyển biến “từ những vật vã cô đơn cùng độ đến những
cảm nghiệm hút hồn đầy hoan lạc”. Linh mục Dũng Lạc Cao Tường căn cứ vào cuốn Life
after Life (Đời sau - 1975) của bác sĩ Raymond Moody và nhất là cuốn Transformed
by the Light (Được ánh sáng biến đổi - 1992 của bác sĩ Melvin Morse), trong
đó tác giả “muốn chứng minh một cách khoa học những điều mà những người nghiên
cứu khác chỉ phỏng đoán, xem những người chết sống lại được thay đổi như thế
nào...” (trang 29). Quá trình chết đi sống lại diễn ra qua bốn hiện tượng:
1. Hồn lìa khỏi xác bay lơ lửng trên không nhìn xuống
xác mình thấy những người thân yêu đang khóc.
2. Hồn bay trong ống dài tối đen với một tốc độ nhanh
kinh khủng. Betty Eadie kể lại kinh nghiệm của chính mình trong cuốn Embraced
by The Light (Được Ánh sáng ấp ủ - 1992): Đây đúng là thung lũng bóng tối
sự chết như Kinh thánh đã từng nói tới.
3. Hồn bỗng thấy một nguồn sáng xuất hiện đầy yêu
thương và an bình. Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Thánh nữ Đồng trinh
Maria. Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện
lên trong một nháy mắt... Rồi hồn sung sướng sửa soạn bước vào vùng ánh sáng
thì lại nghe rõ lệnh: chưa phải lúc, hãy trở về. Thế là sống lại.
4. Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã
gặp ánh sáng này. Họ trở nên thông minh hơn, có sức cảm thụ lạ về những vùng
tâm linh trước kia không hề biết trước chuyện sẽ xảy ra trong tương lai...
Lelvin Morse chứng
nghiệm tất cả những điều thấy trên đây là có thật, chứ không phải do phản ứng
của thuốc, do ảo giác vì thiếu dưỡng khí, do thần kinh óc bị hủy hoại.
Linh mục Dũng Lạc
Cao Tường đã dựa vào lời ông Nguyễn Bá Tín kể lại trong cuốn Hàn Mạc Tử anh
tôi (Tin- Paris 1990): Trí suýt chết đuối ở biển Quy Nhơn, phải nằm ngửa (làm
planche) cho sóng đẩy vào bờ. Trí sợ hãi, thần sắc ngơ ngác, miệng lẩm bẩm nghe
như: Đức Mẹ...Đức Mẹ. Từ đó Trí ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ, nhiều lúc như
xuất thần.
Trí sợ hãi, thần sắc ngơ ngác, miệng lẩm bẩm nghe như: Đức Mẹ...Đức Mẹ |
Trần Thanh Mại
trong cuốn Hàn Mạc Tử – Thân thế và thi văn cũng nói là Hàn Mạc Tử đã
chết đi sống lại ba bốn lần trong thời gian lâm bệnh. Vậy thì một số ý tưởng và
hình ảnh lạ lùng trong một số bài thơ, có thể là Hàn Mạc Tử đã ghi lại sau khi
từ cõi chết về cõi sống.
Cũng có cảnh hồn
lìa khỏi xác, từ trên cao nhìn xuống dương gian:
Anh
đã thoát hồn anh ngoài xác thịt
Để
chập chờn trong ánh sáng mông lung
(Sáng láng)
Rồi
hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc
thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Hồn
mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngả
Và
kêu rên thảm thiết suốt bao la
(Hồn
lìa khỏi xác)
Cũng có cảnh hồn bay
vùn vụt trong không gian, không biết trôi dạt về phương nào:
Vì
không giới nơi trầm hương vắng lặng
Nên
hồn bay vùn vụt tới trăng sao
Sóng
gió nổi rùng rùng như địa chấn
Và
muôn ngàn thần phách ngã lao đao
Cả
hơi hám muôn xưa về ám ảnh
Hồn
trơ vơ không biết lạc về đâu
Và
vướng phải vô vàn tinh khí lạnh
Hồn
mê man bất tỉnh một hồi lâu
(Hồn lìa khỏi xác)
Và hồn được tắm gội
trong nguồn Ánh sáng:
-
Ta ước ao đầu đội mão triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn
ánh sáng...
-
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
Không
u ám như cõi lòng ma quỷ
Vì
có Đấng Hằng Sống Hằng Ngự Trị
Nhạc
thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh
(Ngoài vũ trụ)
Ánh sáng trong
trường hợp Hàn Mạc Tử được thị kiến ở bờ biển Quy Nhơn chính là Đức Bà Maria mà
sau này Hàn tỏ lòng biết ơn trong bài Ave Maria:
Lạy
Bà là đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu
nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho
tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua
dưới thế
Hàn Mạc Tử cũng
được biến đổi lạ lùng sau lần suýt chết đuối ở bờ biển Quy Nhơn. Ông
Nguyễn Bá Tín kể lại: “Mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn còn sợ hãi vì thấy anh không
còn giống anh nữa, anh khác lạ hẳn đi với đôi mắt lạc thần. Cảnh tượng đó ám
ảnh tôi mãi. Tôi tin anh đã được ơn cứu trợ lạ lùng của Đức Mẹ và biến cố trên
đã ảnh hưởng sâu đậm đến đường hướng sáng tác của anh. Khả năng cảm thụ tế nhị
trong văn chương âm nhạc đều bắt đầu từ lúc đó, từ lúc anh sống thu mình lại cả
tâm hồn lẫn thể xác, ngược với những ham muốn dồi dào đã có sẵn từ bẩm sinh.
Đang bồng bột nông nổi đầy sức sống, đi từ ham mê này đến ham mê khác, bỗng đột
nhiên dừng lại, rồi chìm vào một trạng thái đăm chiêu đến xuất thần. Hiện tượng
đó đã đến với anh một cách thình lình, như chớp loà sáng chói, khiến anh ngất
đi, ngơ ngác mù mịt, để rồi biến cải anh hoàn toàn”[2].
Người viết bài này
cũng cảm thấy một số bài thơ của Hàn Mạc Tử trong phần Máu cuồng và hồn điên
(Đau thương) và trong Xuân như ý tương tự với một số hiện
tượng mà Melvin Morse đã miêu tả trong cuốn Transformed by the Light.
Bài viết của linh mục Dũng Lạc Cao Tường đã mở ra một hướng tiếp cận mới đối
với một số hiện tượng tâm linh. Nhưng kết luận của chúng tôi lại khác với những
kết luận của vị linh mục Thiên Chúa giáo. Sau khi khảo sát hiện tượng Hàn Mạc
Tử theo sách của bác sĩ Melvin Morse, linh mục Dũng Lạc Cao Tường kết luận:
“Nguồn ánh sáng mà Hàn Mạc Tử thấy là một ngôi vị Thiên Chúa tình yêu...là
chính Chúa Giêsu. Tất cả những cái thấy trên đúng là như vẽ ra cảnh thiên đàng
trong hình ảnh Kinh thánh qua các thị kiến của các tiên tri và Khải
huyền, thật lạ lùng vượt qua các thị kiến của các tiên tri và Khải huyền,
thật lạ lùng vượt qua sức hiểu biết của con người, nhưng có thực...Hàn Mạc Tử
đã làm chứng Đức Tin bằng thơ văn về những gì huyền bí đã thấy bằng thực chứng
qua những lần chết đi sống lại”.
Theo thiển ý của
chúng tôi, có lẽ chúng ta phải nói ngược lại. Không phải những giấc mơ, những
phút xuất thần trong thơ Hàn Mạc Tử đã chứng minh có Thiên Chúa, có thế giới Khải
huyền, có thung lũng “ngục tổ tông” bóng tối sự chết. Mà chính nhờ niềm tin
vào Kinh thánh và hàng ngày cầu nguyện, nên lúc mê sảng, xuất thần, lúc
chết đi sống lại, Hàn Mạc Tử mới có “cứ liệu” mà tưởng tượng ra được như thế.
Đúng là trong thơ văn, Hàn Mạc Tử đã đặt niềm tin vào một thế giới Khải
huyền (Tựa Xuân như ý, Ra đời, Điềm lạ, Xuân đầu tiên...), Xuân như ý, Xuân
thiêng là “công trình châu báu của Người”, là “phép tắc mầu nhiệm của Đấng
Vô thủy Vô chung”. Đó là “bốn mùa xuân cả bốn” có “nhạc thơm, hương gấm, mộng
ngọc, hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm”. Ánh xuân là nguồn tư tưởng
thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung
cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc như ý, tên xuân là Dạ lan hương...”.
Hàn Mạc Tử vui mừng
chờ đón điềm lạ đêm nay ra đời một mùa Xuân đầu tiên:
Mai
này thiên địa mới tinh khôi
Gió
căng hơi và nhạc lên trời
Chim
khuyên hót tiếng đầu tiên hết
Hoa
lá hồ nghi sự lạ đời
Trái
cây bằng ngọc vỏ bằng gấm
Còn mặt trời kia tợ khối
vàng
Cái mùa Xuân như
ý, Xuân thiêng, Xuân đầu tiên bắt nguồn từ cảnh Trời mới, Đất mới,
Jerusalem mới sau ngày Phán xét. Ta hãy nghe Thánh Gioan kể: “Rồi tôi thấy trời
và đất mới, vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi, biển cũng không còn
nữa... Rồi thiên thần đem tâm trí tôi lên một ngọn núi cao, chỉ cho tôi xem
thành Thánh Jerusalem[3], tự nơi
Thiên Chúa trên trời mà xuống, huy hoàng trong vinh quang Thiên Chúa, và rực rỡ
như một viên đá quý, khác nào một viên đá ngọc trong sáng.... Tường xây bằng đá
ngọc và thành bằng vàng ròng trong sáng như thuỷ tinh; nền tường thành được xây
bằng mọi thứ đá quý... Mười hai cổng là mười hai phiến trân châu, mỗi cửa là
một phiến nguyên. Các đường phố trong thành thì bằng vàng ròng trong suốt như
thuỷ tinh... Thành không cần mặt trời, mặt trăng soi sáng, vì vinh quang Thiên
Chúa chiếu tỏa khắp nơi và Chiên Con là ngọn đèn rực rỡ của thành”[4].
Thế giới Khải
huyền trong thơ Hàn Mạc Tử theo Quách Tấn là vang bóng của vô lượng quang
trên Thế giới Cực lạc mà Tử đã đọc qua kinh A Di Đà. Phật Thích Ca giới thiệu
Tây Phương Cực Lạc (hay Tịnh đồ), thế giới của Phật A Di Đà như sau: “Cảnh giới
ở nước thanh tịnh ấy vô cùng đẹp đẽ, sáng lạn, vui tươi. Phong cảnh cả toàn cõi
là một vườn hoa vĩ đại... Đường xá, cầu cống, đền đài, điện các cõi Tịnh độ đều
làm bằng ngọc vàng, châu báu như bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng
tằng già...những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót ra những thứ tiếng pháp
vi-diệu, hoà lẫn trong những điệu nhạc thiêng, làm cho ai nghe đến, cũng đều
phát tâm hoan hỉ niệm Phật...Ở đây không bao giờ có bóng tối, vì nhờ hào quang
của Phật giáo phát ra, sáng chói luôn luôn”[5].
Chúng tôi cho rằng có thể Hàn Mạc Tử đã chịu ảnh hưởng Kinh thánh lẫn
Kinh Phật, đó là chưa kể những ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian khác, vùng
ảnh hưởng văn hoá Chàm. Quách Tấn cho rằng Hàn Mạc Tử đi vào các tôn giáo “như
một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc... Rồi những gì đã thấm sâu vào
tâm khảm thỉnh thoảng tràn ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi
thì phảng phất, khi thì hiển diện, khi thì ẩn tàng... và tràn ra một cách tự
nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không
ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng” (Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử).
Có những hiện tượng
trong thơ Hàn Mạc Tử vừa có nguyên nhân từ bệnh lý, từ hoàn cảnh cô đơn, vừa có
nguyên nhân từ những ảnh hưởng của tôn giáo. Hàn Mạc Tử đã có lúc muốn đốt tập Thơ
Điên. Vì sao vậy? Có lẽ Hàn Mạc Tử hối hận về “những câu thơ tội lỗi” phạm
thượng, cũng có thể Hàn Mạc Tử không muốn đời sau biết “những bí ẩn của lòng mình” lúc rơi vào những hiện tượng bệnh lý,
mê sảng như trong các bài Một miệng trăng, Cuối thu, Cô liêu:
Và
ai gánh máu trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
(Cuối thu)
Ai đi lẳng lặng trên làn nước
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
(Cô liêu)
Quách Tấn đã ghi lại những lời Hàn Mạc Tử kể: “Một đêm khuya
vắng một mình, Tử ngồi ngắm trăng trên bể. Bỗng anh thấy có ai có ngồi khít rịt
bên anh. Rồi từ người đó lại hiện ra người nữa. Rồi biến đi. Rồi thấy mặt bể
đông lại như tuyết. Trên bể có một người vạm vỡ mặc áo lông gánh hai thùng
thiếc chạy băng băng. Từ hai thùng tung tóe ra những máu là máu. Tử hoảng sợ
chạy về nhà”. Đây là hiện tượng ít nhiều có gắn với bệnh lý nên đâm ra mê sảng,
huyễn tưởng. Cũng giống như:
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Với tấm lòng yêu thương bạn. Chế Lan Viên luôn luôn bênh vực Hàn Mạc Tử: “Bệnh tâm thần, ta vội kết luận. Và đưa nó cho các nhà y học, phân tâm học. Hãy dừng lại đã... Nó là gì? Vì Tử đau yếu chăng? Không, theo tôi chính là anh rất khoẻ, cái hồn thơ anh rất khoẻ. Chả là cô đơn, chả là hư vô, chả là cái chết dập dờn ở trong phòng bệnh và ở giữa đêm trăng này, nó muốn thủ tiêu anh mà không được. Anh là một. Nó muốn zéro hoá anh, hư vô hoá anh cho không còn dấu vết. Nhưng anh đâu có chịu. Anh hóa hai, hóa ba, mình ngồi cạnh mình hơn thế mình lại vạm vỡ ra, nở nang lên, gánh chạy, gánh cái gánh máu đời mình, chạy trên cái bể thảm kịch của đời mình. Cũng là một cách đối chọi!”.
Giải thích như thế
e có phần suy diễn. Tất nhiên, ta chấp nhận ý Chế Lan Viên: Hàn Mạc Tử khạc ra
trăng, khạc ra cái gái hồng nhan, khạc ra hồn cho văng lên muôn trượng, thì hồn
đó gái đó, trăng đó cũng là Hàn Mạc Tử mà thôi. Đây là một hiện tượng phân
thân thường thấy trong thơ văn: nói chuyện với em, với trăng, với bóng với
một người vô hình... Trong Anh em Karamazov, Ivan còn tranh luận với con
quỷ mặc áo đen xem ai là thủ phạm đã giết cha mình, con quỷ màu đen đó là phần
vô thức của Ivan.
Vườn tượng danh nhân tại Trại phong Qui Hòa |
Tất nhiên, trong
những cơn mê sảng, hoảng loạn đó cũng có những hình ảnh bắt nguồn từ tôn giáo.
Ở trên đã nói, trong Kinh thánh có chép chuyện Chúa “mửa” ra người thì
vị “giáo chủ” phạm thượng Hàn Mạc Tử cũng có lúc “khạc” ra trăng, “khạc” ra
hồn, “nhả ra đây một nàng”! Trong thơ Tử có hiện tượng người đi trên biển, gánh
hai thùng thiếc chạy băng băng trên biển thì Phúc Âm theo Thánh Mátthêu
cũng chép chuyện Chúa đi trên mặt biển: “Bấy giờ thuyền đã ra giữa biển,
bị sóng đánh mạnh, vì ngược gió. Đến canh tư đêm ấy, Chúa Giêsu đi bộ trên mặt
biển đến cùng các môn đệ. Thấy Người đi bộ trên mặt biển họ sợ hãi nói rằng:
“ma đấy”. Rồi họ hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu liền bảo các môn đệ rằng: “Hãy an
tâm, Thầy đây đừng sợ”. Ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, nếu thật là Thầy, xin
cho tôi đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Chúa bảo “Lại đây”. Ông Phêrô liền
từ thuyền bước xuống đi trên nước để đến cùng Chúa Giêsu (Mt 14, 22-30). Hiện
tượng “điên cuồng mửa máu ra” gắn với bệnh lý của Hàn. Nhưng hình ảnh máu
trên biển cũng có thể bắt nguồn từ một số chuyện trong Kinh thánh.
Trong sách Khải
huyền có chép chuyện Bảy thiên thần mang bảy tai hoạ - “hãy đổ chén
thịnh nộ của Chúa xuống trái đất”:
Thiên thần thứ hai
đổ chén của mình xuống biển, tức thì biển hoá thành máu và tất cả các
sinh vật dưới biển đều chết. Thiên thần thứ ba
đổ chén của mình xuống sông suối thì sông suối biến thành máu (Kh 16,
3-4)[6].
Như thế, những câu thơ mà ta gọi là huyền bí, kinh dị của Hàn Mạc Tử cũng có thể cắt nghĩa phần nào bằng hoàn cảnh sống cô đơn trong các xóm vắng, trên bãi biển, bằng những hiện tượng bệnh lý, bằng những câu chuyện và hình ảnh mà Hàn Mạc Tử đã đọc được trong Kinh thánh, Kinh Phật. Đó là chúng ta chưa kể đến những tín ngưỡng dân gian của một vùng ảnh hưởng văn hoá Chàm (trong thơ Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử ta thấy có hiện tượng hồn lìa khỏi xác, trong đêm kéo nhau đi lang thang).
PHAN CỰ ĐỆ
(Trích bài Hàn Mạc Tử, những vấn đề đang tranh luận)
Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 157 - 167.
[1] Hồng y
Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Kinh Thánh, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội 1985,
trang 2297.
[2] Hàn
Mạc Tử anh tôi, Nxb Tin, Paris, 1990, tr. 113-114.
[3] Tức Giáo
hội, bạn trăm năm của Chúa.
[4] Hồng y
Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Kinh Thánh, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội 1985,
(Khải Huyền 21,1-4.10-11.18-22).
[5] Phật
học phổ thông, Ban Hoằng Pháp Phật giáo Việt Nam biên soạn, Hưng Đạo xuất
bản, in lần thứ hai 1964, tr. 108-109.
[6] Kinh
Thánh, sách đã dẫn, trang 2311. Chúng tôi gạch dưới.