Đời con có Mẹ

HKN
Mã số: 17-071
 
 
Thu ngồi ngoài bờ ruộng, nhìn xa xăm trên cánh đồng lúa sai trĩu hạt mà tâm trạng rối bời. Khung trời đang sáng, chợt mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến che mất ánh nắng, bầu trời bỗng tối sầm như tương lai của em vậy. Những cơn gió mạnh thổi tới tấp làm cây cối oằn cong nghiêng ngả, em nghĩ đến phận nghèo của mình mà tự hỏi, chẳng biết mình có đứng vững trước giông bão cuộc đời? Thu vẫn ngồi thừ dưới gốc cây mận, mặc cho sấm chớp nổ vang và những hạt mưa to bắt đầu rơi xuống quất vào người em rát rạt. Em ước gì sấm sét kia xẹt trúng vào mình, để em được thoát khỏi cảnh đời khổ ải này. Em vẫn ngồi đó trong cơn mưa nặng hạt, trong tiếng gió rít và ánh chớp lập lòe… Những hạt mưa rơi xuống như đồng cảm với tâm trạng của Thu trong lúc này, lòng em đang trĩu nặng bởi sự giằng co trước chọn lựa: “Đi hay ở?”.

Nhiều khi ngồi một mình, Thu hay nghĩ ngợi. Nghèo đâu phải là một cái tội, nhưng tại sao người ta lại khinh rẻ những người nghèo, mặc dầu họ vẫn cố gắng sống lương thiện bằng chính sức lao động của mình? Tại sao có những người được sinh ra trong nhung lụa, lại có kẻ sinh ra trong bần cùng. Phải chăng đó là phần số của mỗi người...? Và còn bao nhiêu câu hỏi: “Tại sao…? Tại sao…?” mà em không giải thích được. Thu nghĩ, có lẽ Diễm Trang nói đúng: “Số phận đã an bài như thế, chỉ có một cách duy nhất giúp mình thoát cảnh nghèo là kiếm cho thật nhiều tiền và thành phố là nơi dễ kiếm tiền nhất”. Bằng chứng là ba chị em nhà nó mới đi làm hơn một năm đã phất lên thấy rõ.
Vì nghèo, cha mẹ và Thu phải làm lụng vất vả, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời để kiếm cái ăn; vậy mà gia đình em có khi ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Lại thêm một nỗi tủi nhục là chỉ có gia đình em ở giữa xóm đạo, hễ mất gì là họ nghi ngờ cho nhà em. Vì thế, em không cam tâm trước cảnh nghèo nữa mà quyết chí bằng mọi cách phải kiếm được thật nhiều tiền.
Cuối cùng, Thu quyết định trốn nhà đi theo chị em Trang. Lên đến nơi em mới vỡ lẽ về cách “dễ kiếm tiền” của họ. Mấy chị em Trang xúm vô nói:
- Trên đời này có tiền là có tất cả.
- Tuổi xuân qua mau lắm, không lo hưởng thụ sau này hết thời, tiếc nuối cũng muộn rồi.
- Đời bây giờ “lương tâm không bằng lương tháng”, đàng nào cũng chết là hết, sĩ diện làm chi cho uổng phí cuộc đời.
Thu nghe họ nói cũng có lý, em đành nhắm mắt đưa chân.
***
Quả thật, ở chốn đô thị muốn kiếm tiền không khó, chỉ cần có chút nhan sắc, ngồi uống với khách vài ly bia là có tiền rủng rỉnh trong túi. Trông dáng Thu khá bắt mắt nên bà chủ rất mực cưng chiều. Chỉ hơn nửa năm em đã hoàn toàn lột xác, trở thành một “tiếp viên” chuyên nghiệp. Tiền bo càng nhiều, em càng bị lún sâu vào hố thẳm cuộc đời, nhưng em đã bất chấp tất cả, miễn sao có tiền là được. Đã mấy lần, chị em Trang dẫn Thu đi “giải quyết vấn đề”.
Hàng tháng, Thu cố gắng dành dụm thật nhiều tiền để gửi về nhà. Em gái út của Thu viết thư lên nói: “Nhờ có tiền của Hai gửi về mà cha mẹ đỡ vất vả và hàng xóm cũng bớt khinh nhà mình. Ở nhà, mẹ vẫn cúng chùa hàng tháng để cầu Phật độ cho Hai được mạnh khỏe, may lành… Mai mốt em lớn, Hai cho em lên làm chung để kiếm tiền báo hiếu cha mẹ nha!”. Đọc đến đây Thu chợt giật mình, những giọt nước mắt tủi hờn thi nhau rơi xuống.
Có những ngày vắng khách, Thu ngồi nhìn đám lục bình trôi lững lờ giữa dòng nước mà nghĩ đến thân phận bèo bọt của mình. Bất chợt em tự hỏi: Không biết đám lục bình kia sẽ trôi về phương trời vô định nào? Rồi đêm đó, em về nhà trọ ngồi khóc một mình.
Càng có nhiều tiền Thu càng thấy cuộc đời vô nghĩa và trống vắng, chứ không như lúc trước em nghĩ. Những đồng tiền kia được trả cho em sau khi khách đã hả hê, còn thân xác em thì rã rời trong đớn đau tủi nhục.
Ở chốn đô thị này, sự phân cách giàu nghèo rất rõ. Những người nghèo thì cứ nghèo mãi không thể ngóc đầu lên được, vì luôn bị chèn ép và đối xử bất công. Còn một số người giàu thì quăng tiến vào các cuộc vui, nhằm thõa mãn những ham muốn của bản năng. Họ đâu biết rằng, chính họ đang làm tổn thương tâm hồn và chà đạp nhân phẩm của người khác.
Cũng có đôi lần Thu định tìm một việc làm lương thiện khác, dù ít tiền cũng được. Nhưng đa số các công ty đều đòi bằng cấp, chuyên môn và giấy tờ tùy thân rườm rà, mà em thì chẳng có gì ngoài giấy chứng minh thư. Em vào các tiệm ăn xin giúp dọn bàn, rửa chén; họ nhìn em từ đầu đến chân rồi thẳng thừng từ chối:
- Làm ở đây vất vả lắm, sợ cô làm không quen lại phải mất công tìm người thế.
Dẫu Thu năn nỉ hết lời, họ vẫn không chịu nhận. Em đi tìm việc cả ngày không được chỗ nào. Về đến nhà, vừa đói vừa mệt, em buông người xuống giường, úp mặt vào gối khóc tức tưởi, khóc một mình. Em ước gì được trở về quê ở bên cha mẹ và các em, dẫu nghèo mà yên vui, thanh thản…
***
Thu rất mừng và hạnh phúc khi được trở về quê sống cảnh sông nước thanh bình. Em xuống một chiếc thuyền con và bơi chầm chậm trên dòng sông êm ả, hai bên bờ là những vườn trái cây sai trĩu quả, nào là: nhãn, chôm chôm, xoài, mận… Mãi thả hồn vào cảnh vật thiên nhiên, chiếc thuyền trôi dần ra sông lớn. Vừa ra đến cửa sông, thuyền em bị cuốn vào dòng nước xoáy. Rồi bất chợt gió to nổi lên làm mặt sông dậy sóng. Tiếp theo là những đám mây đen nghịt kéo lên và cơn mưa trắng xóa từ xa trông như tấm vải khổng lồ đang trùm xuống mặt sông. Em hoảng hốt cố bơi thuyền vào bờ mà không được. Em dùng hết sức lực gào khóc kêu cứu, nhưng chung quanh không thấy bóng dáng của một chiếc thuyền nào. Nước xoáy mạnh làm chiếc thuyền cứ quay tròn. Những con sóng to cứ dồn dập xô tới, hất tung thuyền lên rồi lại ấn sâu xuống như muốn vùi lấp con thuyền bé teo. Cơn mưa dày mịt làm em không còn thấy đâu là bờ. Một con sóng to hất chiếc thuyền lật úp khiến em chới với giữa dòng. Dẫu biết bơi, nhưng vì sợ và mệt nên em nhanh đuối sức. Em thấy mình như không còn thở được nữa vì bị mưa vùi, sóng dập. Càng lúc em càng tuyệt vọng. Em đang cố dùng chút sức lực cuối cùng để ngoi lên mặt nước. Bất ngờ một chiếc thuyền to xuất hiện, người phụ nữ trên thuyền đưa tay ra nắm lấy tay em kéo lên thuyền của bà. Bà nhìn em mĩm cười đôn hậu, trông bà đẹp tuyệt trần. Mưa gió liền dứt ngay, bầu trời quang đãng, sáng trong trở lại với ánh nắng dịu ấm áp. Người phụ nữ mỉm cười với em lần nữa và nói:
- Con đừng sợ! Ta sẽ luôn ở bên che chở cho con.
Thu chợt giật mình thức giấc, mồ hôi ướt đẫm cả người, toàn thân mệt nhừ, đói lã. Nhưng có một niềm vui và sự bình an sâu thẳm trong lòng em. Thu có cảm giác lâng lâng hạnh phúc, khi em nhớ đến nụ cười của người phụ nữ trong mơ. Em không hiểu sao mình lại có giấc mơ kỳ lạ như thế và người phụ nữ em thấy trong mơ là ai?
***
Mấy tuần sau đó Thu vẫn tiếp tục đi làm. Và rồi, em phát hiện mình lại có thai. Lần này em định âm thầm đi “giải quyết” một mình.
Vừa đến chỗ lần trước, Thu định vào làm thủ tục thì có một người xuất hiện, chị xưng tên là Hạnh trong nhóm “Bảo Vệ Sự Sống”. Chị trao đổi với em vài câu ngắn gọn và cầm tay em dẫn đi. Không hiểu sao em cứ riu ríu làm theo yêu cầu của chị mà không chút phản ứng hay nghĩ ngợi gì, giống như đang bị thôi miên vậy. Chị ghé qua nhà trọ cho em lấy ít đồ cá nhân, rồi đưa lên tận Hố Nai. Em ngồi trên xe mấy chục cây số mà cảm giác lâng lâng như trong giấc mơ hôm trước. Chị gửi em cho người mà chị gọi là dì Nhiên. Dì sống một mình trong căn nhà nhỏ, chung quanh có vườn rau và một số cây ăn trái.
Tối hôm đó là thứ bảy đầu tháng, dì Nhiên dẫn Thu ra lần chuỗi ở đài Đức Mẹ trong xóm. Vì em không có đạo nên không biết đọc kinh, em chỉ ngồi ngắm Đức Mẹ thôi. Khi về đến nhà, em kể cho dì nghe giấc mơ hôm trước và người phụ nữ em thấy trong mơ có khuôn mặt giống y chang Đức Mẹ ngoài đài. Nghe em kể xong, dì Nhiên rơm rớm nước mắt đến bên, cầm tay em và nói:
- Ôi, con ơi! Chính Đức Mẹ đã hiện ra cứu con đó. Dì tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ với con. Hôm nay con chịu đến đây ở với dì cũng là ơn của Đức Mẹ đó con ạ. Rồi đây, Đức Mẹ sẽ phù trợ cho con được mẹ tròn con vuông và làm lại cuộc đời.
- Con cám ơn lòng tốt của dì.
- Con cứ ở đây với dì cho vui. Mặc dù dì không khá giả chi, nhưng hai dì cháu mình cứ tin tưởng vào Chúa, rồi Chúa sẽ lo cho.
Kể từ đó, Thu sống hủ hỉ với dì Nhiên. Sáng nào em cũng theo dì đi lễ, sau đó về nhà nhổ rau và hái trái cây mang ra chợ bán. Buổi chiều, em cùng dì chăm sóc mấy luống rau sau vườn. Tối đến, hai dì cháu đi ra đài Đức Mẹ lần chuỗi với mọi người. Tuy cuộc sống đạm bạc nhưng em cảm thấy rất vui và bình an, em có cảm giác như đây là nhà của mình vậy. Dì Nhiên coi em như con của dì, đối lại em thảo kính với dì như mẹ ruột.
Mối thân tình giữa Thu với dì Nhiên càng khắng khít bao nhiêu, thì em cũng nhiễm tính cách của dì bấy nhiêu. Dì sống đạo cách rất bình dân, dì nhận ra tình thương và quyền năng Chúa trong mọi tạo vật. Một hôm trong bữa cơm, dì chỉ đĩa trái cây trên bàn tấm tắc:
- Con xem, Thiên Chúa quả là quyền năng, Ngài dựng nên trái chuối xanh thì chát còn trái xoài sống thì chua. Vậy mà khi chín, chúng đều ngọt cả, mà mình đâu có bỏ đường xuống gốc cây hay ngâm trái vào nước đường lúc mới hái xuống.
Thấy Thu thích thú lắng nghe, dì nói tiếp:
- Còn mấy cây dừa trong vườn mình mới ngộ, lúc còn non thì nước nhạt và có vị chua, vậy mà đến khi dừa nạo nước ngọt vô cùng. Đó, con thấy Chúa có giỏi không? Đâu có ai leo lên bỏ đường vào từng trái dừa mà sao nước nó ngọt ơi là ngọt. Còn nếu nói nó hút chất ngọt từ đất, thì tại sao cây khế trồng giữa hai cây dừa mà trái nó lại chua? Thế mới biết Chúa quyền năng đến mức nào.
Thu nghe dì Nhiên nói rất có lý nên thầm thán phục dì và ngày càng vững tin vào Thiên Chúa. Trong lớp Giáo Lý Dự Tòng em luôn được cha xứ khen là có đức tin mạnh mẽ. Còn em thì biết mình được như thế là nhờ dì Nhiên truyền tải kinh nghiệm cho. Càng ngày em càng cảm nghiệm được tình thương của một Thiên Chúa vừa cao cả quyền năng, vừa ân cần quan tâm chăm sóc con người…
Một buổi sáng trong làn gió nhẹ, Thu bước ra vườn trong lòng thấy rộn vui khi nghe tiếng chim họa mi hót líu lo. Phía kia mấy chú chim sâu đang vui vẻ, ríu rít chuyền cành. Dì Nhiên đi tới nói:
- Dì thích ra vườn lúc này để nghe tiếng chim hót, có lẽ chúng đang cất lời ca tụng Chúa buổi sáng.
Nhìn những luống rau xanh mướt dưới chân và hàng cây sai trĩu quả, Thu thấy trong lòng thật bình an, thanh thản. Tâm hồn em như muốn hòa vào cảnh vật chung quanh để ca tụng kỳ công của Chúa. Chợt những hình ảnh lúc trước ùa về như áng mây đen làm cảm xúc em dần tắt lịm, chỉ còn lại mặc cảm tội lỗi ngự trị. Trong cuộc sống, có những chuyện được xóa nhòa theo năm tháng, nhưng đôi khi ký ức bị khơi lại từ đống tro tàn làm tâm tư xao động. Em rất hối hận về những lỗi lầm lúc trước. Mỗi lần như thế, em đều thầm thĩ xin Đức Mẹ cầu Chúa tha tội cho mình.
Thu chở rau ra chợ trong tâm trạng buồn thiu. Bất ngờ, một chiếc xe trong hẻm phóng ra tông thẳng vào xe rau làm em ngã xuống bất tỉnh, máu me lênh láng trên mặt đường. Dì Nhiên thấy em hôn mê một ngày không tỉnh thì mời cha vào bệnh viện ban Bí Tích Rửa Tội cho em. Dì đeo tràng chuỗi vào cổ em và khấn Đức Mẹ cho em qua khỏi cơn nguy kịch này. Ngày hôm sau em bắt đầu tỉnh lại, dì Nhiên vui mừng khôn xiết, luôn miệng tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ đã thương cứu em.
Khi biết mình bị hư thai, em đã khóc thật nhiều. Em cầu xin Chúa đón nhận linh hồn bé bỏng ấy vào Nước Trời. Trong nước mắt, em hoang mang hỏi:
- Dì ơi, có phải Chúa phạt con vì những lỗi lầm lúc trước không?
Dì Nhiên nắm tay Thu an ủi:
- Không đâu con ạ. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người không chấp khi ta biết hối lỗi. Với lại, Người mãi yêu thương và luôn làm điều tốt nhất cho ta. Thôi, con đừng buồn nữa. Con tỉnh lại là do Chúa và Đức Mẹ thương cứu rồi. Biết đâu, đó cũng là sự an bài của Chúa và Đức Mẹ để tốt hơn cho con.
Thu vâng lời dì Nhiên, thôi không khóc nữa. Ngày nào bà Lập và con trai cũng đến thăm, mang cơm cho hai dì cháu của Thu. Họ vào năn nỉ Thu đừng làm khó dễ và hứa sẽ lo bồi thường cho em. Người gây ra tai nạn là Phương, con của ông bà Lập, một chủ tiệm trang trí nội thất lớn trong vùng. Sáng đó, anh ôm gà sang nhà bạn để chọi thử, nào ngờ vừa ra đến đường đã gặp sự cố. Phương là con nhà giàu nên từ khi lên cấp ba, anh chỉ thích đua đòi, lêu lỏng và thôi đến nhà thờ. Bố mẹ anh mải lo làm ăn chẳng quan tâm gì đến chuyện đạo hạnh cho con; kể cả ông bà cũng lơ là với Chúa.
Tới lui chăm sóc thăm hỏi một thời gian, Phương đã phải lòng cô nạn nhân dễ mến. Nơi Thu, anh nhận ra nhiều nét đẹp tâm hồn mà anh ít thấy nơi những cô gái đã từng quen lúc trước. Tuy ít học nhưng em khá nền nã, hồn hậu và dịu dàng. Thêm nữa là sắc vóc của Thu cũng khá mặn mà, đầy đặn, lại rất duyên khi cười. Thu không như bao cô gái khác, em không nhận những món quà đắt tiền của Phương, cũng không vòi vĩnh gì và nhất là không thích ra ngoài hẹn hò. Em càng đơn thành bao nhiêu, Phương càng si mê bấy nhiêu. Phương chỉ được đi chung với em đến ba địa điểm: Nhà thờ, đài Đức Mẹ và sạp rau ngoài chợ.
Để được ở bên Thu, Phương bắt đầu đi lễ trở lại. Dần dần mỗi sáng, anh đều đến chở dì Nhiên và em đi lễ; mỗi chiều, anh cùng hai dì cháu đi lần chuỗi ngoài đài. Ông bà Lập thấy con trai đột nhiên thay đổi tính nết, lo chí thú làm ăn và siêng năng đi đạo, hai người cũng chạnh lòng lo chuyện lễ lạc trở lại. Hàng xóm thấy gia đình ông Lập đi lễ thì kháo nhau:
- Gia đình ông ấy bị “nhiễm Virut đạo đức” của dì cháu bà Nhiên đấy.
***
Quen nhau được hơn một năm, Phương thưa với ba mẹ cho hai người tiến tới hôn nhân. Nhưng khi ông bà Lập nghe nói gia đình Thu nghèo, lại thuộc tôn giáo khác thì phản đối. Thu biết thân phận mình nên nói với Phương:
- Gia cảnh cũng như bản thân em không xứng với tình yêu của anh.
Rồi Thu kể cho Phương nghe quá khứ của mình. Anh rất bất ngờ và không thể tin được, bởi từ trước tới giờ anh cứ ngỡ Thu là con nhà gia giáo. Bẵng đi mấy ngày anh không đến nhà dì Nhiên; sau khi đã suy nghĩ kỹ, anh sẵn sàng chấp nhận Thu và bỏ qua tất cả. Phương vội vàng chạy vô gặp thì em đã về quê mất rồi. Anh năn nỉ dì Nhiên xin địa chỉ để đi tìm Thu, dì bảo:
- Thu nhờ dì nhắn lại với anh là đừng tìm nó nữa!
Phương nhớ Thu quay quắt mà không biết tìm ở đâu, đành mượn rượu giải sầu. Suốt cả tuần, ngày nào anh cũng về nhà lúc nửa đêm trong tình trạng say khước, miệng luôn gọi tên Thu. Vì Phương là con một nên bà Lập rất xót xa khi thấy con như vậy.
Rồi chuyện gì đã đến cũng phải đến, Phương bị tai nạn gãy cả hai chân. Khi tỉnh lại, anh nổi loạn giật hết bông băng trên người, đập đổ hết những gì trong tầm với và luôn miệng đòi chết, đến nỗi bác sĩ phải tiêm thuốc an thần anh mới chịu nằm yên. Vừa phải xa Thu và thân mình bị tàn phế, anh hoàn toàn suy sụp. Bà Lập năn nỉ anh hết lời và khóc hết nước mắt mà chẳng được. Cuối cùng bà đành cậy dì Nhiên đi đón Thu lên.
Dì Nhiên mủi lòng trước cảnh nhà bà Lập nên nhận lời. Hôm Thu bị tai nạn vừa khỏe, dì có đưa em về quê, nhưng lần đó có em dẫn đường, bây giờ đi một mình cũng thấy lo lo. Dì đang cầu xin Đức Mẹ dẫn đường thì có một cô gái đi kế bên hỏi:
- Dì về đâu ạ?
- Tôi định đi Vĩnh Long.
- Con cũng về đó, mà dì xuống chỗ nào?
Dì Nhiên đưa địa chỉ của Thu cho cô gái, vừa đọc xong cô reo lên:
-Con biết nhà này, nhưng cách nhà con hơn cây số. Ông này thỉnh thoảng có đến làm mướn cho nhà con.
Nhờ cô gái chỉ đường, dì Nhiên tìm được nhà Thu dễ dàng. Dì cám ơn Đức Mẹ đã dẫn đường cho dì đến nơi. Khi biết Phương đã vì mình mà bị tai nạn, Thu liền xin cha mẹ cho lên thăm anh. Cha mẹ Thu rất cảm kích trước lòng tốt của dì Nhiên nên đã đồng ý.
***
Phương rất ngạc nhiên khi thấy Thu xuất hiện, nhưng bất chợt anh gào lên:
- Cô đi đi! Tôi bây giờ là một kẻ tàn phế, tôi không cần cô thương hại đâu…hu…hu…
Thu nghe nhói trong tim, nước mắt tuôn tràn trước thảm cảnh này. Mới xa nhau gần hai tuần mà trông Phương gầy xọp, bơ phờ, rũ rượi…phần do buồn tình, phần vì ba ngày qua anh không chịu ăn uống gì. Thu bước đến nắm bàn tay của Phương đang bị cột vào thanh giường mà khóc. Phương gồng mình, nhăn mặt, đôi mắt nhắm nghiền, hai giọt nước mắt trào ra. Một lúc sau, anh nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
- Em… đừng đi Thu ơi!… Anh… anh không thể sống thiếu em mà...
- Em không đi đâu. Anh đừng làm hai bác lo lắng nhé!
Mọi người xung quanh ai cũng rơi nước mắt. Thu ở lại phụ bà Lập chăm sóc cho Phương. Anh vui vẻ, phấn chấn hẳn lên làm ông bà Lập cũng thấy nhẹ lo.
Sau khi Phương hồi phục và đi lại kha khá thì ông bà Lập tổ chức hôn lễ cho hai trẻ. Lúc trước ông bà phản đối, nhưng khi về sống chung lại rất hài lòng vì có con dâu đạo đức, hiếu kính, nết hạnh, hòa nhã. Tuy nhiên, những tính tốt đó không thay thế được bổn phận “lưu truyền nòi giống”. Cưới nhau đã ba năm mà Thu chưa có con, bà Lập sốt ruột hối thúc nhưng mãi chẳng thấy gì, bà bắt đầu tiếng nặng tiếng nhẹ với nàng dâu khi không có con trai ở nhà. Đôi lúc Phương thấy vợ ngồi khóc trước bàn thờ Đức Mẹ trong phòng, anh gặng hỏi mãi mới biết lý do. Anh an ủi Thu:
- Em đừng lo, chúng ta cùng khấn Đức Mẹ rồi kiên nhẫn chờ đợi, khi nào Chúa và Đức Mẹ muốn thì các ngài sẽ ban cho chúng ta.
Có lần Thu lén đi khám thì được biết: “Do ảnh hưởng của mấy lần phá thai lúc trước, nên có nguy cơ là em không thể có con được nữa”; nghe vậy em lo lắng vô cùng. Mỗi sáng sau lễ, hai vợ chồng em đều đến trước đài Đức Mẹ khẩn nài tha thiết. Cuối cùng, sau năm năm chờ đợi với bao nước mắt và lời cầu xin, em đã có thai và sinh được một bé trai bụ bẩm, kháu khỉnh. Em xin cha mẹ chồng đặt tên cho bé là: Hoàng Ân Thiên Đức, nghĩa là Ân ban của Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Hôm Rửa Tội cho bé Thiên Đức, lúc các bà mẹ bế con đến trước đài Đức Mẹ hát kinh, nước mắt Thu tuôn tràn nhỏ lên mặt con. Em thầm thĩ trong lòng:
- Lạy Chúa, con xin đội ơn Chúa. Mẹ ơi, con xin cám ơn Mẹ. Con xin dâng con của con cho Mẹ, xin Mẹ thương chúc lành và phù hộ cháu. Từ nay con không còn lo sợ gì nữa, vì đời con có Mẹ.