Viết Lời
giới thiệu cho cuốn Hàn Mạc Tử anh tôi của Nguyễn Bá Tín (Nhà xuất
bản Tin, Paris, 1990), Đỗ Mạnh Tri đặt vấn đề: “Phàm tục hay thoát tục? Khổng
hay Lão? Phật giáo như Quách Tấn hay Công giáo như Võ Long Tê? Con chiên ngoan
đạo của cố Đồng, cố Mỹ hay chiến sỹ Cần Vương của nội tổ Phạm Bồi?... Cõi trời
của Mai Đình nữ sĩ hay cõi Đời của thi sĩ Chế Lan Viên?”. Và ông đã trả lời:
“Những yếu tố giàu có, đa dạng hoặc đối nghịch trên lý thuyết đã cụ thể hài hòa
trong nếp sống gia đình, dòng tộc. Tới Hàn Mạc Tử thì tất cả đã biến thành thơ.
Hàn Mạc Tử là của tất cả. Vì thi nhân đã đón nhận tất cả để trả lời và
dâng lên cho tất cả”.
Người
khẳng định một cách mạnh mẽ nhất “Đức tin trong hồn thơ Hàn Mạc Tử” là
Đặng Tiến. Ông viết: “Kiến trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc Tử đều vang dội lời
truyền giảng của Phúc Âm”. “Toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của
Thánh Tự” trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh thánh:
một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội, những khổ hạnh của thân xác như một
kinh nghiệm của Mơ ước và Huyền diệu để vươn tới một thế giới
khác Sáng láng ngoài Hư linh, thế giới của Phục sinh, của Khải
huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của đời thơ Hàn Mạc Tử. Vũ trụ Gái quê
đã sụp đổ trong Đau thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một
mùa Xuân như ý”.
Đặng Tiến xếp ba bài thơ cuối của Hàn Mạc Tử (Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên) và những bài thơ cuối tập Đau thương chung vào chủ đề Xuân như ý, như một giai đoạn thơ trong cuộc đời Hàn Mạc Tử nói lên niềm mơ ước, chờ đợi Xuân Thiêng ra đời[1]. Đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được hồi phục trong cảnh trời mới, đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng.
Dè dặt hơn
Đặng Tiến, Võ Long Tê cho rằng “người tín hữu Công giáo ấy mãi về sau mới
trở nên nhà thơ Công giáo sau khi đã đi trọn một đoạn đường đau thương và có
một nhận thức do ân sủng thúc đẩy” (Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của
Hàn Mạc Tử). Ân sủng đã can thiệp lúc nhà thơ viết Lời tựa cho tập Thơ điên
(Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo), quan niệm thơ và tôn giáo hòa
hợp sau này được giải bày rõ hơn trong bài Tựa cho tập Xuân như ý. Thôi thúc
bởi tình yêu và niềm tin vào Đức Chúa Trời, Hàn Mạc Tử đã có lúc viết thư cho
Bùi Tuân: “Tôi dự định viết ra nhiều tập thơ về tôn giáo. Trong thi giới nước
ta chưa ai nghĩ đến việc đem truyện Sinh nhật, chuyện Phục sinh làm thi đề. Đó
là những tài liệu không còn gì thú vị bằng... Bao giờ tôi cảm thấy mình đau đớn
trong xác thịt và trong tâm hồn và nhất là tôi thấy mình bình tĩnh trong sạch
thì mới làm ra được những bài thơ đạo hạnh. Không phải lúc nào mình cũng làm
được lối thơ ấy” (Bùi Tuân – Nửa đêm đi tìm Hàn Mạc Tử – Nguyệt san Vinh Sơn
(Huế), số 1-2-1951). Hoạt động sáng tạo nghệ thuật theo chiều hướng nói trên dễ
thống nhất với hoạt động truyền giáo của một tông đồ. Những lúc ấy thơ Hàn Mạc
Tử có khả năng rơi vào lối thơ khuyến thiện hoặc minh họa một cách dễ dãi cho
nên trong Tuyển tập Hàn Mạc Tử (nhà xuất bản Văn học 1987) Chế Lan Viên đành
phải cắt bỏ những câu thơ:
“Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đời trăng mọc nước huyền vi
Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cửu, Tề Phi!”
(Sao, vàng, sao)[2]
Hoặc
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.
(Ave Maria)
Có khi cắt bỏ hàng loạt bài thơ như Nguồn thơm, Say thơ, Đêm xuân
cầu nguyện trong tập Xuân như ý.
Võ Long Tê
cho rằng vấn đề nan giải ở Hàn Mạc Tử là tìm một sự tổng hợp hài hòa giữa những
yêu cầu của đức tin tôn giáo với những đòi hỏi phóng túng của sự sáng tạo nghệ
thuật. Có lẽ chính Hàn Mạc Tử cũng không thích lối thơ cảm hóa khuyến thiện cho
nên trong nhiều trường hợp không tự giác, Hàn Mạc Tử đã để cho sự sáng tạo của
nghệ sĩ vượt quá đức tin của một tín đồ. Cho nên “những âm hưởng huyền bí học
của bài thơ Ra đời phát sinh từ một lối chú giải nên thơ – chứ không
phải là một lối chú giải chính thống của Giáo hội – về những dữ kiện Thánh kinh
học. Đừng nên trách cứ nhà thơ phạm tội lầm lạc, nếu quả có lầm lạc” (Võ Long
Tê). Mặt khác, nếu sự lầm lạc đó có lợi cho thi ca, có lợi cho sự sáng tạo nghệ
thuật thì chúng ta càng hoan nghênh chứ sao. Hàn Mạc Tử nghệ sĩ bao giờ chả
phóng túng hơn Nguyễn Trọng Trí tín đồ. Cũng như Khái Hưng, tuy đã có lúc vào
chùa niệm Phật tụng kinh cứu khổ hoặc có khi ở nhà, trong mấy đêm liền thức
khuya tụng từng pho kinh A Di Đà hay Địa Tạng nhưng chưa chắc
Khái Hưng đã có dụng ý mượn cuốn Hồn bướm mơ tiên để tuyên truyền cho
giáo lý nhà Phật. Cho nên mới xảy ra tình trạng mà Tam Ích phê bình: “Nguy nhất
là Khái Hưng đem hoang sử, huyền sử vào cửa thiền: muốn thăng hoa thái độ và
nếp tu hành của Văn Khôi công chúa đời Lý Nhân Tông, người viết truyện đã đem
cả Ngọc Hoàng Thượng Đế và Tiên nga giáng thế vào chùa ..., thêm vào đó một con
rồng vàng và phép mầu nhiệm của Thích Ca Mâu Ni Phật... Mô Phật!” (Ý Văn I, Lá
bối xuất bản, 1967). Có lẽ Hàn Mạc Tử cũng như Khái Hưng dường như cũng không
quan tâm lắm đến việc nói cho thật đúng giáo lý Cơ Đốc hay giáo lý nhà Phật.
Chính vì thế mà có lúc Hàn Mạc Tử phải “van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu”:
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng “
(Đêm xuân cầu nguyện)
Nhưng Võ Long Tê lại nhận xét ngay trong bản tuyên tín rực sáng này vẫn có
một bóng mờ:
Ta chắp hai tay lạy quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng, vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt
giàu sang hơn Thượng Đế.
Như trên
đã nói, sáng tạo nên một trời, mây, sông, nước bốn mùa xuân, thi sĩ dường như
muốn cạnh tranh với Thượng Đế và tự hào về thiên chức thi nhân của mình.
Chi tiết
này làm ta nhớ đến câu chuyện Michel Ange thể hiện câu chuyện truyền thuyết
sáng chế trong Thánh kinh trên vòm trần tiểu giáo đường Xichxtin ở La Mã. Người
nghệ sĩ thiên tài này trong gần suốt bốn năm trời đã treo mình lên một giàn
giáo ở độ cao hai mươi mét để vẽ một loạt tranh theo câu chuyện truyền thuyết
về những ngày sáng tạo thế giới. Michel Ange nhiều lúc cảm thấy lưng thõng
xuống, mắt hoa lên nhức nhối như sắp mù. Đó là chưa kể có lúc chịu ăn đói hàng
tuần lễ, thậm chí bị Giáo Hoàng Julie II lăng nhục và đánh bằng gậy như đánh
một kẻ nô lệ. Nhưng dường như có một sức mạnh kỳ diệu đã giúp cho Michel Ange
vượt qua mọi thử thách. Mỗi khi bước vào tiểu giáo đường, chiêm ngưỡng cái thế
giới hình tượng tràn đầy sức sống và sự hài hòa của những màu sắc thiên nhiên
rực rỡ, Michel Ange không cảm thấy cô đơn, mệt mỏi mà chỉ thấy lâng lâng một
niềm vui kỳ lạ. Nghệ sĩ dường như thấy mình đã trở thành Đức Chúa Trời thiêng
liêng đang sáng tạo thế giới.
Theo Võ
Long Tê, chính sự cám dỗ muôn đời của thiên chức nghệ sĩ này đã khiến cho Hàn
Mạc Tử ứng xử như một người ảo thị, huyễn tưởng trong Thượng thanh khí,
Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội. “Các nhân vật và tác giả vận động trong một vũ
trụ xem là bản chuyển tả Thiên đường Kitô giáo theo cấu trúc ngoại giáo”[3].
Ý kiến của
Đặng Tiến có hơi khác: “Nếu Xuân như ý còn nhiều hình ảnh dựa theo tín
lý Thiên Chúa, thì Cẩm châu duyên lại gần với huyền tượng của dân gian,
phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo- một thứ đạo giáo bình dân, không
ăn thua gì đến cái “đạo khả đạo” của Lão Tử” (Đức tin trong hồn thơ Hàn Mạc
Tử).
Đời nhà
Lý, người ta chủ trương tam giáo đồng nguyên (đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão)
cùng chung một nguồn gốc. Hàn Mạc Tử thì lại cho rằng “Đạo vốn có một – Người
đời hiểu sai lạc rồi phân chia ra đạo này đạo nọ” Khi Quách Tấn hỏi tại sao Hàn
Mạc Tử lại dùng chữ Phượng Trì để đặt tên cho Thánh thất của Thánh nữ
Đồng Trinh Maria, thì Trí trả lời:
“Tôi nghiệm
Đức Mẹ chỉ có một, nhưng vì óc phân rẽ kia nên bên Đạo Phật gọi là Quan Âm Bồ
Tát, bên Đạo Tiên gọi là Tây Vương Mẫu, bên đạo Thiên Chúa gọi là Thánh Nữ
Đồng Trinh Maria. Tên tuy khác, nhưng theo tôi chỉ là một đấng mà thôi. Mà
Tây Vương Mẫu ở Phượng Trì để chỉ nơi Thánh Nữ ngự” (Đôi nét về Hàn Mạc Tử).
Chế Lan
Viên nhắc lại câu nói của Hàn Mạc Tử “Đức Mẹ chỉ có một” và bình luận:
“Cái câu
này mà Giáo hội biết thì Tử chết, Tử sẽ bị kết tội là tà giáo hay đạo Cao
Đài”... Tử có biết vì sao Tử đưa Tây Vương Mẫu vào không? Có đưa thì Tử mới tả
cả cô Tiên “ấm như da thịt nàng dâu” mà còn lại tắm truồng nữa! Giáo hội biết
là Tử chết”[4].
Các nhà
thơ lãng mạn và tượng trưng của miền Trung dường như đã chịu ảnh hưởng phức tạp
của nhiều tôn giáo. Năm 1936, Bích Khê đi tu tại chùa Ông Rau trên núi Tà Cú,
năm 1937 lại ngụ tại một ngôi chùa ở Phú Thọ để nghiên cứu triết lý nhà Phật. “Chế
Lan Viên quỳ dâng tràng chuỗi hạt”(Trường Thọ) nhưng Chế Lan Viên đã
có lần cầu nguyện: “Thích Ca! Giêsu! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm
trước uy linh huyền diệu của các ngài” (Vàng sao). Hàn Mạc Tử “thuộc một
gia đình Công giáo lâu đời, tên thánh rửa tội là Phanxicô, nhưng Hàn Mạc Tử
cũng chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Từ 1930, Hàn Mạc Tử đã nhiều lần “ngoạn cảnh
chùa”, đã say đắm “phong cảnh rừng thiền” và “lòng thấm thía mùi thiền như
thoát tục” (Để tại chùa Ông Núi, mùa hè 1930). Quách Tấn cho rằng “trong thơ
Hàn Mạc Tử có nhiều bài ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ
bài Phan Thiết! Phan Thiết!
Nhớ khi xưa ta
là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay
chín tầng trời cao ngất
Bay từ Đao Ly đến trời Đâu suất!”
Ngoài
những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật như “thành chánh quả”, “Sông Hằng” ngoài
những hình ảnh tươi đẹp của trời “Đao Ly”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa
xăm đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh sáng – “chúng ta nhận thấy trong bài Phan
Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài
tình”[5].
Phan Xuân
Sanh dường như cũng cùng một quan điểm với Quách Tấn khi nhận xét bài Phan
Thiết! Phan Thiết!: “Thế giới cực lạc của Phật A Di Đà là một nơi chim cùng
với người tấp nập trong chánh quả. Không gian và thời gian tính của thế giới
thi văn, nhất là khung cảnh thơ của Hàn Mạc Tử”[6].
Có một sự
tranh chấp Hàn Mạc Tử giữa những tín đồ đạo Thiên Chúa và đạo Phật. Cũng một
bài Tựa Xuân như ý cùng một số bài thơ như Ra đời, Điềm lạ, Xuân đầu
tiên mà mỗi người giải thích một cách. Đặng Tiến viết: “Xuân Thiêng đây là
niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được hồi phục trong cảnh trời mới
đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng”... “Những hình ảnh tráng lệ
như gấm, ngọc, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn gợi lên
một vinh hiển như khi sứ đồ tả thành Giêrusalem mới trong Khải huyền:
“Thành ấy chói sáng như một viên bửu thạch, như bích ngọc rạng ngời... Tường
thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thủy tinh trong
vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (Kh 21,11.18 và 21). Dựa theo
Khải huyền, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mạc Tử là một
phóng thể của đức tin Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh thần tiên
của đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó” (Đức tin trong hồn thơ Hàn Mạc
Tử).
Cũng những
hình ảnh tráng lệ nói trên, nhưng Quách Tấn lại giải thích theo tinh thần Phật
giáo: “Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di
Đà... Những ánh sáng vô cùng, những “tiếng nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư
linh”, những “điệu nhạc rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác”, “cây bằng gấm
và lòng sông bằng ngọc” ở trong thơ Tử là vang bóng của vô lượng quang trên Thế
Giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua Kinh A Di Đà” (Ảnh hưởng của đạo Phật trong
thơ Hàn Mạc Tử). Trong bài báo vừa dẫn ở trên, Phan Xuân Sanh cũng đi đến
kết luận tương tự: “Chim thanh tước, thế giới mười phương, ấy là hình ảnh tượng
trưng cho cõi đời thênh thang và giải thoát của thời gian vô tận và không gian
mênh mông đã được trình bày một cách hết sức kiều diễm và phong phú trong Kinh
A Di Đà. Hàn Mạc Tử từ niềm tin thơ đi rộng ra đã bắt gặp niềm tin đạo; qua những
dòng thơ lung linh, huyền nhiệm của Hàn Mạc Tử, chúng ta có nhiều dịp thấy ẩn
hiện một dòng linh hồn nối từ lòng người đến trăng sao, từ Hàn Mạc Tử đến ba
ngàn thế giới”.
Nhưng có
lẽ chúng ta cũng không cần tranh luận đến cùng xem Xuân như ý, Xuân Thiêng, Thế
giới mới của Hàn Mạc Tử là thế giới Phục Sinh, thế giới Khải huyền của
đạo Thiên Chúa hay Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà hay thế giới thần tiên của
Đạo giáo, vì Hàn Mạc Tử không phải là nhà thơ tôn giáo hiểu theo nghĩa là
chuyên dùng thơ để truyền bá tôn giáo của mình. Quách Tấn viết:
“Tuy là một tín đồ Thiên Chúa giáo rất nhiệt
thành, Tử vẫn thường xem kinh điển nhà Phật. Tử thường nói cùng bạn rằng: “Tôi
lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ thôi. Tôi dung hòa cả hai
thể văn chương tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chỉ là muốn làm giàu cho
nền văn chương chung”. Vì vậy thơ Đạo của Tử chịu ảnh hưởng cả hai nền tôn
giáo. Nhưng tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần tô đậm hơn đạo Thiên
Chúa. Bây giờ tôi xin thưa rằng Tử là một nhà thơ đi vào vườn hoa tôn giáo chỉ
để tìm hương phấn về ướp cùng hương thơ đó thôi. Bởi vậy không thể gọi Hàn Mạc
Tử là một nhà thơ tôn giáo. Tử là một nhà thơ thuần túy” (Đôi nét về Hàn Mạc
Tử). Đối với một thi sĩ mà cuộc đời gặp nhiều bất hạnh như Hàn Mạc Tử thì
thơ là lẽ sống cao nhất:
Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh
Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ.
(Say thơ)
Về cơ bản chúng ta có thể đồng tình với Phan Xuân Sanh khi ông cho rằng Hàn
Mạc Tử “Trong khi ôm một lý tưởng thơ đi tìm cảm hứng đã gặp đạo và tìm được
trong đạo nhiều đề tài, nhiều thanh sắc, tư tưởng để làm giàu cho thơ mình?
Theo thiển ý, Hàn Mạc Tử là một thi sĩ có nhiều lý tưởng thơ và lý tưởng thơ
này đã bao trùm cả niềm tin của ông về tôn giáo. Ngay trong những bài ca ngợi
đức tin, ca ngợi những hình ảnh thiêng liêng: Thánh Nữ Đồng Trinh, Chúa Hài
Đồng... Như ở các bài Ave Maria, Đêm xuân cầu nguyện, Ra đời... Tôn giáo
và các hình ảnh tùy thuộc đã được thi vị hóa và mất dần tính cách trang nghiêm,
tuyệt đối của tín điều, kinh điển (...) Cái thói ngang tàng bừa bãi xưa nay vẫn
là thói chung của các nhà thơ. Hàn Mạc Tử quỳ trước thánh Maria, chúng ta có
cảm tưởng như ông đã quỳ trước nàng thơ và hình ảnh nàng thơ với hình ảnh Ave
Maria đôi khi chỉ là một, rồi thi sĩ nghiễm nhiên biến thành vai trò “Giáo
chủ” giữa một lúc cầu nguyện trong đêm xuân (...) Nghĩ đến một cái gì “giàu
sang hơn Thượng Đế” hẳn thi sĩ Hàn Mạc Tử đã muốn bước qua biên giới của tín
ngưỡng mình” (Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam).
Thế giới
mới của Hàn Mạc Tử, đúng như Phạm Đán Bình đã nhận xét, đó là “thế giới lý
tưởng hóa, đền bù cho thực tế phũ phàng. Một thế giới không còn những mâu thuẫn
và thỏa mãn mọi ước vọng” (Tan loãng trong Hàn Mạc Tử). Nếu như trước
kia, trong thơ Hàn Mạc Tử là tình yêu tuyệt vọng, là trăng sao đổ vỡ tan tành
hoặc tan ra “Thành vũng đọng vàng khô”, hoặc “rã lần như hương khói giấc chiêm
bao” thì “nay mặt nhật tròn vo đường sáng láng”, “tao phùng duyên đến bao giờ
lại thấy” “cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm”... Đó là một mùa xuân như ý,
“bốn mùa xuân cả bốn”, ở đây có “suối đoàn viên”, có “cây phối hợp” và “rất
nhiều hoa bướm”. Phạm Đán Bình đi đến một kết luận thú vị: “thế giới mới của
Hàn Mạc Tử là thế giới cô đọng lại những gì đã tan loãng”. Thế giới mới
của Hàn Mạc Tử rất có thể “lung linh như kim cương, như ngọc thạch”, như vàng
ròng, như thủy tinh trong vắt mà sách Khải huyền đã loan báo cũng có thể
là thế giới cực lạc của Phật A Di Đà, thế giới của mười phương, của hào quang
vô lượng mà cũng có thể là thế giới thần tiên của đạo giáo. Một khi đã rơi vào
số phận bất hạnh phải sống cô đơn xa cách với mọi người và cái chết đang từng
ngày, từng giờ đe dọa, thì việc Hàn Mạc Tử thu hết tất cả những gì là trong
sáng, cao cả, là lung linh, huyền diệu vào một thế giới ước mơ, vào vương quốc
lý tưởng của mình là một điều dễ hiểu. Thế giới đó cũng giống như cái vương
quốc “tự do” của các nhà lãng mạn trường phái Léna ở Đức, Novalis “Hoàng đế của
những nhà lãng mạn chủ nghĩa” đã kêu gọi hãy thoát ly vào thế giới lý tưởng của
nghệ thuật: “Ai bất hạnh ở trần thế này, ai không đạt tới những gì mà mình tìm
kiếm thì hãy thoát vào thế giới của những pho sách và nghệ thuật, vào thế giới
của thiên nhiên – đấy là sự thống nhất vĩnh cửu giữa cổ đại và hiện đại – hãy
sống trong giáo đường đang bị giày vò này, tiêu biểu cho một thế giới tốt đẹp
hơn, sẽ tìm thấy được trong đó người yêu và người bạn, tổ quốc và Chúa Trời.[7]“
Bàn về
chất đạo, chất đời trong thơ Hàn Mạc Tử, Yến Lan viết: “Có một nguồn thơ đặc
biệt nữa dự phần đáng kể trong thi ca của Hàn Mạc Tử là thơ về Đạo. Anh là một
con chiên ngoan đạo. Tuy nhiên, chất đạo (thanh khiết, thiêng liêng) trong thơ
anh đã bị chất đời (đau đớn, bệnh tật) lấn áp... Tôi mong bạn đọc thấy rõ chất
đời trong thơ anh vừa riêng biệt tưởng không hình dung nổi lại vừa rất chung,
rất thực, có thể sờ mó lên nó. Mà thôi, đạo với đời trong thơ anh vẫn là những
mặt nhỏ trên một viên kim cương, mặt này ánh xanh, mặt kia ánh vàng, đều làm
viên kim cương có sức ngời chói lóng lánh” (Tôi nhớ Hàn Mạc Tử).
Cùng một
quan điểm như vậy, Chế Lan Viên Viết: “Bài Ave Maria viết cho Đức Mẹ
trên trời, có thể viết hay như thế không, nếu không có bà mẹ ở dưới đất? Và chị
Lễ, chị đã mất, nhưng đây là câu Tử viết trong Chơi giữa mùa trăng, một
bài văn xuôi như thủy tinh, như suối, như đêm trăng và tâm hồn của Tử: “Chị Lễ
ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa. Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh
thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và uy nghi như pho tượng Đức Bà Mari là bực tinh
tuyền chí thánh”. Chất đốt đẩy tên lửa của Tử lên thượng thanh khí, lên phượng
trì, lên sát những mũ triều thiên, té ra là tình cảm là ân nghĩa từ mặt đất” (Tuyển
tập Hàn Mạc Tử, Tr. 22). Lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam và thế giới đã
có những trường hợp tương tự. Mười tám pho tượng La Hán đặt trong hành lang của
chùa Tây Phương là những tác phẩm đẹp bậc nhất của nghệ thuật điêu khắc cuối
thế kỷ XVIII. Các nghệ sĩ chẳng qua mượn đề tài chuyện Phật để miêu tả một xã
hội quằn quại bế tắc và những nỗi “đau đời” của các cha ông ta trong cảnh hoàng
hôn của thế kỷ trước (Huy Cận – Các vị La Hán chùa Tây Phương). Nhưng
tác phẩm của Michel Ange (Thánh Mẫu bên cầu thang và đặc biệt là Gia
đình thánh) tuy phảng phất chút ít màu sắc thiên giới nhưng vẫn tràn đầy
không khí trần gian. Điều đó không có gì lạ. Trong quá trình sáng tạo, Michel
Ange đã đến những khu nghèo khổ nhất của Florence, nơi những bà mẹ vừa làm việc
vừa giữ con trên đầu gối hoặc đi lang thang trên các con đường vùng Toxcan vẽ
những em bé má hồng, những cô gái tràn trề sức sống, những nông dân đang làm
việc ngoài đồng... Chính hàng trăm bức ký họa nông dân vùng quê hương đã giúp
cho nghệ sĩ thiên tài khắc họa chân dung các vị thánh trong tác phẩm của mình.
Từ trước đến nay, con người vẫn xây dựng chân dung các vị thánh trên thiên đình
bằng những nguyên mẫu dưới trần thế.
Làm sao có
thể chứng minh được “toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của Thánh
Tự”?
Nhận định
cực đoan này sẽ không thuyết phục khi ta dẫn ra những bài thơ có màu sắc dân
gian trong sáng như ca dao, những bài thơ ưu thời mẫn thế (như Đêm khuya tự
tình với sông Hương) hầu hết các bài thơ trong Gái quê, Đau thương,
Duyên Kì Ngộ, Quần tiên hội kể lại một số bài trong Xuân như ý, Thượng
thanh khí...
Dường như
ta quên mất một Hàn Mạc Tử đã có lúc “dấn thân” vào các vấn đề thời cuộc, nhất
là Hàn Mạc Tử gặp nhà báo.
Trên Thực
Nghiệp Dân Báo, số 3195 ngày 26-07-1931 Phan Bội Châu đã nêu lý do “mở một
cửa hàng dạy thơ gọi là “Mộng Du thi xã”. Tất nhiên, đối với một chí sĩ đã từng
phát động phong trào Đông Du thì “Mộng du” đâu phải là mộng mị, mộng mơ mà là
mộng lớn, mộng độc lập, tự do. Cụ đã nêu một bài thất ngôn làm mẫu, trong đó
tràn đầy tâm sự và chí khí của người yêu nước:
Vàng khè trắng toát khác đôi bên
Thây kệ ai chê mặc kẻ khen
Sông núi lỡ làng màu lịch sử
Gió trăng chờn chợ mối nhân duyên.
Chẳng long lay đến lòng son sắt
Há hổ ngươi vì miếng bạc đen
Ba chén xong rồi ai ấy bạn?
Một pho kinh
Phật một cây đèn.
Rồi tiếp
theo, trên tờ Thực Nghiệp Dân Báo, số 3214, ngày 2-9-1932 Phan Bội Châu lại tìm dịp bộc bạch rõ hơn
tâm sự yêu nước của mình trong “năm bài thơ tự trào”, coi như một tiếng chim
gọi đàn:
“Chân giời góc bể hai mươi năm
Nay còn trào thơ, có gì tốt?”
... “Nhưng vì khối huyết uất trong lòng
Dầu có bán rẻ, hơn ngồi không!”
... “Những điều trông thấy, dứt hết ruột
Núi đứng dậy
khóc, sông nằm rên”.
Trong số
khách hưởng ứng bốn phương, “Ông già bến Ngự” đặc biệt lưu ý đến ba bài thơ Chùa
hoang, Gái ở chùa và Thức khuya của P.T. (Quy Nhơn) đăng trên Thực
Nghiệp Dân Báo, số 3248, ngày 11-10-1931. Đọc bài Thức khuya của Hàn
Mạc Tử:
“Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chỉ mình
ta dạ chẳng an”...
Chắc hẳn
Phan Bội Châu vô cùng sung sướng khi thấy Mộng Du thi xã đã góp phần đánh thức
dậy lòng yêu nước vẫn tiềm tàng trong tâm hồn của thế hệ trẻ. Phan Bội Châu đã
họa lại cả ba bài thơ của Phong Trần kèm theo một lời cổ vũ chân tình và nồng
nhiệt:
“Thưa tác
giả P.T. tiên sinh
Tác giả
cho tôi được đọc ba bài thơ, tôi lấy làm hân hạnh cho Mộng Du thi xã lắm. Xem
trong thơ, u oán cao tình, thâm tâm nhã điệu, đủ cả mấy phương diện. Tôi chỉ
phàn nàn rằng: “Người xướng quá cao, tất nhiên người họa phải ít” nên tôi xin
tục điêu ba bài, khỏi để tác giả buồn sự cô điệu độc đàn mà thôi.
Còn như
nói rằng: Tôi là người nối thơ được với tác giả, thì tôi không dám.
Ôi! Hồn
giao nghìn dặm, biết làm sao được bắt tay nhau cười lớn một tiếng mới là thỏa
hồn thơ đó!”
(Thực
Nghiệp dân báo, số 3256, ngày 21-10-1931)[8].
Mối tình
gắn bó giữa Hàn Mạc Tử với Phan Bội Châu bắt đầu từ đó. Sự cảm thông và ngưỡng
mộ nhà chí sĩ, theo chúng tôi, không phải là ngẫu nhiên. Nhiều nhà thơ lãng mạn
đã tìm đến với Phan Bội Châu, một biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước. Lưu
Trọng Lư, sau những ngày chán nản ở Quốc học Huế, đã bỏ trường đến nhà Phan Bội
Châu và “Ông già Bến Ngự” đã tặng cho “con nai vàng ngơ ngác” cái biệt hiệu Hy
Ký. Con voi già của Huy Thông là một trường ca viết về người chí sĩ cách mạng
Phan Bội Châu, lời thơ đầy âm hưởng bi tráng. Còn Hàn Mạc Tử từ Quy Nhơn ra Huế
thăm Phan Bội Châu đúng sáng mùng một Tết năm Ất Hợi (1935). Trong chuyến đi
đó, ngoài hai bài thất ngôn bát cú đã đăng trên Công Luận, số 9-3-1935 (Xuân
chơi thần kinh, Sáng mùng một Tết đi xe lửa ra Huế), Hàn Mạc Tử đã dành
riêng một bài “Kính tặng cụ Phan Sào Nam” làm theo thể song thất lục bát: Đêm
khuya tự tình với sông Hương (Công luận, số 2-3-1935)
Hàn Mạc Tử
thủ thỉ tâm tình sông Hương, cũng là với “Ông già Bến Ngự”:
Bây giờ chỉ có đôi ta
Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi
Thuở non nước đền bồi non nước
Sông Hương đành xuôi ngược đông
tây
Soi lòng chỉ có đám mây
Đám mây phú quý những ngày lao đao
Sao mặt sông xanh xao ra dáng
Sao tình sông lai láng khôn ngăn?
Vì ai lắm nỗi chứa chan!
Hay còn đợi
khách quá giang một lần...
Thơ Hàn
Mạc Tử đã có lúc bộc lộ một nỗi đau trước thời cuộc, trước tình trạng đói khổ
của dân chúng trong cảnh nô lệ:
Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng
Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn
Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than
Dưới bóng mặt trời đầy dẫy hào quang
Ngán thay! Cuộc đời sống khổ
Nào non sông mưa mưa gió gió
Nào trời đất lơ láo láo lơ
Phủ màn mây ảm đạm mịt mờ...
(“Sống khổ và
phấn đấu”, Công luận số 6-4-1935)
Tấm lòng ưu ái với vận mệnh của nhân dân, của đất nước trong bài thơ xuân
tặng Phan Sào Nam đã biến thành những câu hỏi, những băn khoăn da diết:
Này thử hỏi, thuyền nan thả lá
Thuyền ai đây nấn ná bấy lâu
Mặc cho khanh tướng công hầu
Không thèm chung đỉnh lưng bầu gió trăng
Sao trời đất đãi đằng ra thế
Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm
Trong thành yên ấm vui thêm
Tiếng ca lanh lảnh, lọt rèm, rèm thưa
(...) Sao trai gái đi về trong mộng
Mà Sông Hương chẳng động niềm riêng
Trong thành để lạnh hương nguyền
Tiếng gà gáy
nguyệt láng giềng còn say...
Cuối bài
thơ Hàn Mạc Tử ghi rõ: “Trên bờ Sông Hương mồng hai tết năm Ất hợi”. Về chuyến
đi Huế năm đó, Nguyễn Bá Tín ghi lại: “Sau khi anh Trí ở Huế thăm cụ Sào Nam ở
Bến Ngự trở về bị mật thám Pháp xóa tên trong danh sách du học Pháp do Hội Như
Tây bảo trợ, tôi mới biết là anh Mộng Châu đã sai anh Trí đi xin địa chỉ một
đồng chí của Đông Kinh Nghĩa Thục ở Thái Lan”[9].
Bài thơ
trên là một bằng chứng hùng hồn về thái độ “nhập cuộc” của Hàn Mạc Tử. Và tất
nhiên, không chỉ có thế Hàn Mạc Tử còn ca ngợi “Karl Marx thi sĩ” (Công
luận số 4-5-1935), ca ngợi những “văn sĩ cách mạng” như Maxime Gorki,
Romain Rolland, Henri Barbusse và trong nước thì khen Hải Triều, Hải Thanh,
Trần Huy Liệu: “Các văn sĩ ấy hoàn toàn thoát khỏi các bụi bặm của luồng gió
quốc gia, trái lại cho quần chúng cần lao những bài toán chính trị cần giải
quyết, biết đem cái tinh thần quốc tế để truyền bá lại những bước đường mới mẻ
của thời cuộc cần phải đi. Nên chi trên các báo, những vấn đề rắc rối, những
học thuyết cao sâu, lần lần bày giải ra bằng ngòi bút rành rẽ, chu đáo, cốt đưa
cho tinh thần quần chúng cần lao một phận sự tối cần làm dân trong nước (Một
cuộc cách mạng trong văn giới Việt Nam – Tiến bộ, số 3-6-1939)
Hàn Mạc Tử
còn cộng tác với Tôn Thất Vỹ (tức Nguyễn Minh Vỹ) một đảng viên Cộng sản vừa ra
tù, một cây bút trong nhóm Thái Dương văn đoàn ở Quy Nhơn, để xuất bản tập Nắng
Xuân (sách chơi xuân năm Đinh Sửu, 1937), trong đó thi sĩ cho đăng phóng sự Quan
Nghị ...Gật (Bút hiệu Trật Sên) đánh thẳng vào đám “nghị gật”, trò hề của
“Trung kỳ nhân dân đại biểu viện”! Đời các ông nghị ở đây “ly kỳ hơn Hitler địa
vị thợ săn nhảy lên chính quyền nước Đức và Hoover từ địa vị bán báo tới lúc
ngồi ghế tổng thống”. Các ngài vốn làm nghề “quét chợ ở tỉnh” hoặc “thằng bồi
xuất thân” nhưng nhờ “khôn khéo”, “biết cách làm đầy tớ các nhà tư bản, biết
chiều chuộng các “quan thầy” nên chẳng bao lâu đã nghiễm nhiên là một viên thầu
khoán giàu nhất tỉnh, có vô số tòa ngang dãy dọc và cứ như thế cái chức nghị
viện thành phố còn lọt vào tay ai nữa chứ!” Ngồi họp ở viện dân biểu các ngài
hoặc “ngủ gật trên bàn” hoặc “yêu cầu tăng thuế thân, thuế sanh ý và triệu tập
một cuộc hội nghị bất thường để quan sát, không để khảo cứu những câu ca dao
lẳng lơ ở miền thôn dã!”.
Bài thơ
xuân biểu hiện tập trung lòng yêu nước của Hàn Mạc Tử (Đêm khuya tự tình với
sông Hương) rất tiếc lại không được đưa vào hai tuyển tập thơ Hàn Mạc Tử,
một in ở Hà Nội năm 1987 (do Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu) một in ở
Nghĩa Bình (do Hà Giao, Quách Giao, Trần Thị Huyền Trang biên soạn, Chế Lan
Viên, Quách Tấn giới thiệu). Có lẽ những người làm tuyển tập chưa sưu tầm được
những bài này trên báo năm 1935. Nhưng cả hai Tuyển tập lại đưa vào bài Lòng
quê với một chú thích hết sức hấp dẫn: “Một nhà cách mạng bị thất bại bị
tống giam, đêm ấy giữa mùa đông lạnh giá, bỗng có tên ngục tốt đưa vào cho nhà
cách mạng phong thơ của một người tình ở nhà quê. Xem xong, nhà cách mạng lấy
bút làm bài này”. Đã có một nhà phê bình và ngay cả ông Nguyễn Bá Tín đã trích
bài này để chứng minh “tinh thần dân tộc”[10]
và thái độ nhập cuộc của Hàn Mạc Tử! Thế nhưng bài thơ đó lại là của Uông Tinh
Vệ[11] (do
Hàn Mạc Tử dịch), đăng liền hai số Sài Gòn, ngày 18-11-1935 và 25-11-1935 người
viết tên Lệ Thanh. Tuy nhiên, qua bài thơ này ta có thể thấy rõ ý thức trách
nhiệm của nhà báo yêu nước Hàn Mạc Tử đứng trước thời cuộc. Bình luận hai bài
thơ Ngồi trong khám thấy người ta phá bánh xe để lấy gỗ và Vịnh
Tuyết, Hàn Mạc Tử viết: “Cái bánh xe gỗ nó cháy rụi cho đến phút cuối cùng
cũng chẳng qua là để giúp ích cho nước nhà, những cục tuyết trắng muốt nằm ở
trên mặt đất vướng phải cát bụi mà không than vãn, đó chẳng phải là cái biểu
hiện cho một thứ tình ái quốc nồng nàn mà Uông Tinh Vệ đã mượn để giải bày tâm
sự ư?” Bài báo kết thúc bằng những câu đầy khí phách và tâm huyết: “Uông Tinh
Vệ ưng ngang tàng bốn cõi kia”.
Cái tâm
hồn của Uông Tinh Vệ cũng giống như bà Sarojini Naidu người Ấn độ đã từ bỏ cái
ống sáo của nhà thi sĩ mà cầm lấy cái chiêng để kêu gọi dân chúng vào trường
chiến đấu.
Cái địa vị
của nhà thi sĩ đâu phải ở trong thơ phòng mà chính là ở giữa dân chúng ... Đem
gan óc để đền nợ nước chưa đủ, tiên sinh còn muốn đem máu mình mà rải khắp chân
Vạn Lý Trường Thành”.
Lòng yêu
nước cũng như thái độ dấn thân của Hàn Mạc Tử có nguồn gốc từ truyền thống Cần
Vương của nội tổ Phạm Bồi. Khi vua Hàm Nghi dời đô, hạ chiếu Cần Vương lập
chiến khu chống Pháp, “nội tổ Phạm Bồi, bấy giờ là võ quan tại Thanh Hóa, hưởng
ứng Cần vương đem binh vào Huế cứu giá, đồng thời đa số dòng họ Phạm cũng tham
gia các phong trào khởi nghĩa”[12] vì
có lệnh truy nã nên thân sinh Hàn Mạc Tử phải đổi họ tên là Nguyễn Văn Toản để
vào học ở tiểu chủng viện. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước
nên việc Hàn Mạc Tử tìm đến Phan Bội Châu và có chịu ảnh hưởng ít nhiều phong
trào Mặt trận Dân chủ sôi động ở Huế và Sài Gòn cũng là điều tất nhiên, Thơ ca
lãng mạn của Thế Lữ (Nhớ rừng), Huy Thông (Con voi già), Huy Cận (Tràng
giang), Hàn Mạc Tử (Đêm khuya tự tình với sông Hương, Mùa xuân
chín, Đây thôn Vĩ Dạ...) ấp ủ một lòng yêu nước thầm kín. Lòng yêu nước đó
được thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, yêu ngôn ngữ
tiếng Việt. Tiếng nói trong thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh thơ
mới chính là đất nước Việt Nam thống nhất và mỹ lệ.
Hàn Mạc Tử
mơ ước có một “Xuân thiêng”, “Xuân như ý” ra đời:
Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang
Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
(Quần tiên hội)
Đặng Tiến giải thích đó là thế giới mới, thế giới của phục sinh, Khải
huyền. Nhưng không phải mùa xuân nào trong thơ Hàn Mạc Tử cũng là mùa xuân
tôn giáo, mùa xuân lý tưởng.
Chúng ta bắt gặp trong Mùa xuân chín một mùa xuân thuần lương một
mùa xuân ngoại đạo đủ cả đường nét, ánh sáng, màu sắc, âm thanh một mùa xuân
tưng bừng với các lễ hội dân gian Việt Nam. Mùa xuân đến trong cảnh bình minh,
sương mờ đang tan dần ánh nắng ban mai phủ một màu vàng dịu lên những mái nhà
tranh một màu vàng sáng lên khắp nơi, những tiếng hát vui tươi của các cô thôn
nữ khi làng quê trẩy hội vào xuân:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao
cô thôn nữ hát trên đồi...
Mùa xuân cũng là mùa của hạnh phúc, mùa cheo cưới, tiếng pháo tưng bừng rộn
rã:
Pháo nhân duyên nổ đã hơi nhiều
Trầu lịch sự têm mời hai họ
Đường trai thẹn nên không dám ngỏ
Nói chi Nường là gái đông lân
Buồng không ra xiêm áo sượng sần
Ông mai mối cười như ngô nở
Người ta cưới cả xuân cả vợ
Nên ân tình nổi máu trên môi.
(Cưới xuân,
cưới vợ)
Câu thơ của Hàn Mạc Tử có lúc yêu đời một cách lạ thường. Ai dám nói đây là
thi sĩ của buồn chán, của Hư vô và cái chết? Nhưng cuộc đời bất hạnh đã ập
ngang vào giữa tuổi thanh xuân, khiến cho niềm vui chẳng bao giờ trọn vẹn. Câu
thơ trong Mùa xuân chín đang tưng bừng, rạng rỡ bỗng lắng xuống trong
một niềm ngậm ngùi, thương xót:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Những thôn nữ vui tươi trong hội hè kia rồi sẽ có lúc phải từ giã tuổi
xuân, từ giã những ngày đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của đời mình để bước chân về
nhà chồng, lo toan gánh vác công việc ma chay, đình đám, giỗ chạp, cưới xin cho
cả bên nội và bên ngoại. Cuộc đời của họ chỉ còn là một tấm vải thô dệt bởi
những ngày tối tăm, vất vả. Tương lai của họ không phải tìm đâu xa, tương lai
đã hiện hình từ trong quá khứ:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông
trắng nắng chang chang?
Hình ảnh
người đàn bà gánh thóc dọc bờ sông giữa nắng trưa hè hun hút đã tiếp nối hình
ảnh những người “quanh năm buôn bán ở mom sông”, những “thân cò lặn lội bờ
sông”... của văn học truyền thống. Thương người vợ nhưng cũng là thương mình.
Vô tình thi sĩ đã cảm nhận một điềm báo định mệnh cho tương lai của mình; người
đọc chợt bàng hoàng thương cảm khi nhận ra rằng rồi đây chính thi sĩ sẽ phải từ
bỏ “đám xuân xanh”, từ bỏ “cuộc chơi” đang tưng bừng, rộn rã để sống cách ly
với mọi người trong nỗi cô đơn, bệnh tật:
“Ai đem tôi bỏ
dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu tuyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
(Những giọt lệ)
Như trên đã nói, Mùa xuân chín là một mùa mùa xuân ngoại đạo, một
mùa xuân rất đời, gắn với những lễ hội dân gian, chẳng có gì có thể gọi là
“tinh thần tôn giáo – vũ trụ” cả![13]
Một số bài thơ viết về thiên nhiên đất nước của Hàn Mạc Tử còn gắn liền với
những miền quê hương, với những kỷ niệm vui buồn trong cuộc đời tình ái của thi
sĩ (Đà Lạt trăng mờ, Phan Thiết, Phan Thiết! Đây thôn Vĩ Dạ). Hàn Mạc Tử
lên thăm Đà Lạt lần đầu năm 1933, lúc ấy thi sĩ chưa làm “thơ mới”. Bài Đà
Lạt trăng mờ là hình ảnh những đêm trăng, Tử ngồi cùng Quách Tấn trên bờ hồ
Than Thở, dưới hàng thông lấp loáng, lặng chìm trong sương khuya:
“Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như
đón từ xa một ý thơ.
(...) Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm
Hư thực làm sao phân biệt được!
Sông Ngân Hà
nổi giữa màn đêm”.
Theo quan
niệm lãng mạn của Hàn Mạc Tử thì khi “huyền ảo khởi sự”, đó là giây “phút
thiêng liêng” tạo nguồn cảm hứng cho thơ. Cảnh “hư thực”, huyền ảo của Đà Lạt
đêm trăng mơ màng đầy tính chất thú vị... Không thể nói là bài thơ đã ít nhiều
“thấm nhuần tâm tình tín mộ tôn giáo” và Trời trong câu “Và để xem Trời giải
nghĩa yêu...” không phải là một Thượng Đế chung của các nhà thơ lãng mạn là
Thiên Chúa Ba Ngôi của Đức tin như có người đã giải thích!
Phan Thiết với Lầu Ông Hoàng, Mũi Né cũng để lại nhiều kỷ niệm vui buồn
trong thơ Hàn Mạc Tử. Gần hai năm trời (1935 - 1936), chiều thứ bảy nào Hàn Mạc
Tử cũng từ Sài Gòn ra Phan Thiết tìm gặp Mộng Cầm và cậu ruột của nàng là thi
sĩ Bích Khê dạy ở trường Hồng Đức. Cặp tình nhân thường đến chơi Lầu Ông Hoàng
(tức lầu của bá tước Đờ Môngbăngkê), một phong cảnh rất đẹp. Mối tình ngọt ngào
đó sau này trở thành một vết thương đau đớn trong cuộc đời thi sĩ:
Ta lang thang tìm đến chốn Lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Ôi trời ơi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi...
(Phan Thiết! Phan Thiết!)
Huế đẹp và
thơ mộng với sông Hương, cầu Tràng Tiền, những “cô áo tím nước da trắng nõn
nà”, những thôn xóm ven bờ sông như thôn Vĩ Dạ, nổi tiếng bởi những cây trái
xanh tươi bốn mùa, những ngôi nhà duyên dáng, vườn tược, sông nước mây trời:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che
ngang mặt chữ điền...
Câu thơ
không phải là một lời trách cứ mà như lời của người thương mời chào người
thương về thăm cảnh đẹp của quê hương. Bình minh lên ở Vĩ Dạ với nắng sáng long
lanh trên những hàng cau còn đẫm sương đêm. Ở tầng dưới của những hàng cau
thẳng tắp vươn lên đón nắng mai là một không gian mượt mà xanh tươi với những cành
lá mơn mởn, xanh mướt như ngọc. Và thấp thoáng sau những lá trúc mảnh mai lay
động là khuôn “mặt chữ điền” hiền lành, trung hậu... Thiên nhiên và con người
hài hoà trong một vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo của xứ Huế. Năm 1936 Hàn Mạc Tử đã
có lần tìm đến nhà Hoàng Cúc ở Vĩ Dạ, nhưng do bản tính “kín đáo và bẽn lẽn như
con gái” nên chàng chỉ đứng lâu ngoài ngõ nhìn vào rồi lặng lẽ ra về. Bài thơ Đây
thôn Vĩ Dạ đến tay Hoàng Cúc khoảng tháng 11-1939, lúc ấy thôn Vĩ Dạ chỉ
còn là hoài niệm, là nhớ thương da diết của Hàn Mạc Tử.
Mối tình
giữa Hàn Mạc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc là mối tình đầu lãng mạn mới chớm nở. “Mối
tình ấy bàng bạc trong tập Gái quê và phảng phất trong nhiều bài thơ kế
tiếp. Tập Gái quê trong bản thảo Tử đề tặng Cúc, nhưng nghĩ không tiện, nên khi in, Tử xoá mấy hàng đề
tặng”[14].
Nhận định trên của thi sĩ Quách Tấn về cơ bản là đúng, nhưng không nên dựa vào
đó để cho rằng bài Tình quê là nhằm thi vị hoá mối tình đầu với Hoàng
Cúc. Bài đó đã được đăng trên Công luận, số 30-3-1935 với cái tên là Tương
tư (Gửi khách sông Lam), sau đó lại đăng Sài Gòn văn chương, số
25-11-1935 với cái tên Mong đợi (Gửi khách sông Lam)[15].
Trên tờ Công Luận, số 6-4-1935 lại đăng Yêu để sống (Tặng em Hải
Đường sông Lam). Một bài thơ khác như bài Bẽn lẽn được đăng trên báo Sài
Gòn ngày 7-12-1935 với cái tên Vô tình và ký Mộng Cầm. Như thế trong
tập Gái quê không phải chỉ có hình ảnh Hoàng Cúc mà còn có bóng dáng
Mộng Cầm và một vài người khác nữa (trong các bài Nhớ chăng và Nhớ
nhung).
Bài Tình
quê là nỗi nhớ nhung đối với một người tình lý tưởng lẫn vớí tình nhớ quê
hương.
Thơ viết
về thiên nhiên đất nước của Hàn Mạc Tử mang một sắc thái riêng. Xuân Diệu
thường mượn thiên nhiên để nói tới cái “tôi” của cá thể trước cái mênh mông,
lạnh lẽo của không gian:
Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
(Lời kỹ nữ)
Hàn Mạc Tử
thể hiện thiên nhiên như một sự hoà điệu của tâm hồn. Thơ trữ tình của Hàn Mạc
Tử là thơ hướng nội. Cảnh và người hòa lẫn vào nhau, đường ranh giới rất mong
manh và nhiều khi, người thơ lấn át cảnh thơ. Ngày 23-1-1940, Hàn Mạc Tử viết
cho Thương Thương: “Thương Thương, cái tên thi vị quá chừng. Thương Thương là
một bài thơ hơn nữa, một nguồn thơ bất tuyệt. Em chúc cho anh “khi nào cũng
phải rào rạt bởi muôn ngàn cảnh vật xung quanh để viết ra những bài thơ huyền
diệu”. Thế là em lầm rồi. Thơ bao giờ cũng tại tâm chứ không tại cảnh. Cảnh là
điều giả dối, phù vân, mà tâm mới chân thành, trường cửu. Ở lòng anh có Thương
Thương, nghĩa là có thơ, có nguồn thơ vĩnh viễn đấy” (Hàn Mạc Tử - thân thế
và thi văn).
Trong thơ
Hàn Mạc Tử, thiên nhiên như hoà lẫn vào những trạng thái cảm xúc khác nhau của
tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc đó bàng bạc trong mỗi câu thơ và người đọc như bị lạc
vào một thế giới mơ hồ, huyền ảo của cảm xúc, hương thơm, màu sắc và ánh sáng.
Khi chìm vào dòng cảm xúc ấy, người ta như quên đi những phiền muộn hàng ngày
của cõi đời, quên cả chính bản thân mình, chỉ còn lại một cảm giác lâng lâng,
bay bổng ở một khoảng trời trong sáng, con người như muốn hoà nhập vào cảnh sắc
làng quê.
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên ngừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh
dường đê mê.
Cảnh sắc
thien nhiên như buông xuôi theo dòng cảm xúc
của thi sĩ. Không gian tĩnh lặng nhưng dưới bề sâu là những chuyển động thầm
kín, những âm thanh mơ hồ thầm kín của tạo vật mà chỉ riêng thi sĩ mới cảm nhận
được:
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chỉ đến trăng thề
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục
Dưới trời thu man mác
Bàng bạc khắp
sơn khê...
Thơ Hàn
Mạc Tử làm ta rung cảm trước khi tìm hiểu. Tình quê thu hút chúng ta
bằng những hình ảnh gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu. Tình quê trôi
theo một âm điệu buồn man mác, một nỗi buồn vương vấn khắp không gian. Lời thơ
mang đầy nhạc điệu và những cảm xúc “đê mê” lòng người đã gợi ý cho Phạm Duy
phổ bài thơ thành nhạc (in trên bìa tuần báo Sinh lực số 1, ra ngày
30-1-1958).
Tình
quê khi in vào tập Gái
quê không đề tặng Hoàng Cúc hoặc “Khách sông Lam” (Tức Mộng Cầm). Ở đây nếu
có, chỉ là một người tình lý tưởng. Tình yêu đối với Hàn Mạc Tử chỉ là một
nguồn cảm hứng của thi ca. “Tôi say tình cũng như tôi say trăng, say người thục
nữ, say kinh cầu nguyện, say trời tương tư” (Tình – Chơi giữa mùa trăng).
Trong bài Quan
niệm thơ (Gửi Trọng Miên), Hàn Mạc Tử nói rõ hơn: “Trong khi làm thơ, Trí
đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô
tội”. Người tình lý tưởng theo quan niệm “cổ điển” của Hàn Mạc Tử phải là một
người đẹp bước ra từ trong trang giấy (“Thư trung hữu mỹ nữ”). Vì thế mà suốt
đời thi sĩ chẳng bao giờ gặp được người yêu mơ ước:
Đời không có ngọc trong pho sách
E hết khôi
nguyên ở Phượng Trì
Nếu như
thi sĩ là chim Phượng hoàng (tất nhiên là một loại “Phượng hoàng si dại”) thì
người lý tưởng phải là một “trang thục nữ tương thân nhi tương kính”[16].
Ta trở nên như ngọc đàng kim mã
Rất hào hoa rất phong vận: Người Thơ
Ta là trai khí huyết ước ao mơ
Người thục nữ sanh giữa thời vô
thượng.
(Phan Thiết! Phan
Thiết)
Người yêu lý tưởng đó, ở thời kỳ đầu lãng mạn (Gái quê) phải chăng
là “một thiếu nữ khuê các, tài hoa, người Huế, biết đàn, biết thơ mà anh ngưỡng
mộ. Đó là Hoàng Hoa nữ sĩ”[17]. Trong thơ tình của Hàn Mạc Tử,
hình ảnh người yêu không hiện lên đường nét như trong thơ Xuân Diệu:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm...
(Tương tư chiều)
Người yêu hiện lên như một ánh trăng huyền diệu hoặc một mùi hương hư ảo. Hương
thơm là vẻ đẹp đặc trưng của người tình lý tưởng:
“Ái tình bắt đầu căng
Hoa thơm thì nín lặng
Hương thơm thì bay lan
Em tôi thì hổn hển
Áo xiêm lấm tấm vàng”
(Sáng trăng)
“Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình”
(Thời gian)
Ở Quy Nhơn nhà Hàn Mạc Tử ở gần nhà Hoàng Cúc nhưng hai người vẫn cách xa
nhau như hai thế giới. Hoàng Cúc kể: “Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái,
còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng”[18]. Hàn Mạc Tử say đắm trong mối
tình đầu nhưng chỉ dám đứng từ xa chiêm ngưỡng nàng như chiêm ngưỡng một nhan
sắc. Đó là tình yêu “âm thầm”, lặng lẽ, dường như đơn phương:
“Em có ngờ đâu trong những đêm
Trăng ngà giãi bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn như ngây dại
Hứng
lấy hương nồng trong áo em”
Mối tình vô vọng có thể là một trong những nguyên nhân khiến Hàn Mạc Tử bỏ
Sở Đạc điền Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo. Sau gần một năm, chàng trở lại Quy
Nhơn, mối tình với Hoàng Cúc lại nồng nàn hơn, có phần bạo dạn hơn:
“Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lấm hương
Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn cúc ở trong sương”
(Hồn cúc)
Câu thơ tưởng như có vẻ suồng sã nhưng vẫn chỉ là “ôm hồn cúc”, “ngấm ngầm
trao đổi những ân tình” với “hồn hoa” (Huyền ảo). Thế rồi Hoàng Cúc theo cha về Vĩ Dạ. Hàn
Mạc Tử coi như nàng đi lấy chồng, thi sĩ đau khổ vì mối tình tuyệt vọng: “Con
sông này đã đi qua. Suốt đời ta thề không trở lại. Vì cô lái đã lên bờ...Không
có ái tình tuyệt đối”. Nhưng vẫn hy vọng có ngày gặp lại Hoàng Cúc ở Huế: “Nhất
nhật bất kiến như tam thu” - Nếu phải quỳ lạy dâng tất cả những ngày sung sướng
đã qua và sẽ tới cho người để đổi lấy một phút gặp gỡ...” (Mùa thu đã tới).
Chàng và nàng tình cờ đã gặp nhau ở Hội chợ Huế. Nhưng Hàn Mạc Tử vẫn không dám
tặng Gái quê cho Hoàng Cúc. Sau này Hoàng Cúc kể lại và ân hận về thái
độ rụt rè đó của chàng: “Càng tội nghiệp hơn là hôm sau anh xuống Vĩ Dạ đứng
trước cổng hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ đi”[19].
Mùa hè năm
1939, Hoàng Tùng Ngâm viết thư về Huế cho Hoàng Cúc biết Tử mắc bệnh nan y,
khuyên Cúc viết thư thăm Tử để an ủi một tâm hồn trong trắng, bất hạnh. “Thay
vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte visite. Trong
ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có
cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời
hỏi thăm sức khỏe Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được
bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ và một bài khác nữa do Ngâm gửi về...”[20].
Xuất xứ
bài thơ là như vậy. Nhưng không nên hiểu là bài thơ minh hoạ tấm bưu ảnh. Dù
ông Nguyễn Bá Tín có nói rõ: “Chị rất cảm động khi biết anh vẫn không quên vườn
rau tươi mát, vẫn nhớ đám bắp bến đò Cồn nhìn sang Vĩ Dạ mà dòng nước buồn thiu
lặng lẽ trôi...”. Ông Nguyễn Bá Tín còn đưa thêm một chi tiết mà cả Hoàng Kim
Cúc, cả Quách Tấn không thấy nói đến: “Cho đến khi anh đau nặng hồi 1939, chị
Cúc còn gởi cho anh một phiến ảnh cỡ 6x9. Chị mặc áo dài lụa trắng như những cô
gái Huế thời bấy giờ đứng trong vòm cây xanh mát”[21].
Bài thơ rõ
ràng là được cấu tứ trên một số chi tiết của cuộc đời thực. Nhưng thơ Hàn Mạc
Tử là một sự hài hoà giữa mộng và thực, giữa đường nét cụ thể và sương khói
huyền ảo. Kết cấu của bài thơ không phải là cái lôgic của hiện thực khách quan:
“Khổ 1: Thôn Vĩ Dạ... Khổ 2: Dòng sông Hương êm đềm thơ mộng. Khổ 3: Người đất
Huế, những cô gái Huế” (Soạn Văn, Lớp 12, Tập I, trường Đại học Sư phạm I, Hà
Nội, 1989, tr.41) mà chủ yếu là cái lôgic bên trong tâm hồn thi sĩ, cái lôgic
của một mối tình đẹp nhưng tuyệt vọng. Mà vì tuyệt vọng nên:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn
thiu, hoa bắp lay...
Khổ thứ
hai diễn tả nỗi lòng của Hàn Mạc Tử chứ không nhằm “diễn tả cái nhịp điệu nhẹ
nhàng, chậm rãi của Huế” (Soạn Văn, tr. 42). Tất nhiên, “Sông Trăng” có thể là
sông Hương, nhưng hai câu:
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó
Có chở trăng
về kịp tối nay?
thì đã là
cảnh mộng hư ảo rồi. Chở “trăng” nào về vậy? Khó mà biết được bởi vì:
Không gian đầy đặc toàn trăng cả!
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Mỗi ảnh mỗi hình thêm phiếu diểu
Nàng xa tôi quá nói nghe chăng?
(Huyền ảo)
Hai câu
nói trên chỉ có thể là một mơ ước về hạnh phúc. Ước mơ này còn được tiếp theo ở
khổ ba:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình
ai có đậm đà?
Áo em thì
trắng mà xứ Huế lại nhiều sương khói mông lung nên chỉ thấy “mờ nhân ảnh”.
Nhưng ở đây không phải là chuyện ảnh là mà chuyện “tình ai có đậm đà” bền chặt
hay không, hay cũng chỉ mờ ảo sương khói như trời đất xứ Huế?
Lần đầu
tiên Hàn Mạc Tử được trực tiếp thổ lộ mối tình với Hoàng Cúc. Những tình cảm
đẹp và trong sáng nhưng buồn và thoáng qua một chút hoài nghi. Có lẽ Hàn Mạc Tử
cũng cảm thấy không đành lòng, nên sau đó,
chàng lại gửi tặng Hoàng Cúc bài Sao, vàng, sao (tức là bài Đừng
cho lòng bay xa). Ở đây hai linh hồn gặp nhau
trong thế giới Vĩnh Cửu mà bốn phía cầu vồng đẹp năm sắc mây:
Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cửu, Tề Phi?[22]
Cao cao vượt tới hai hàng bóng vía.
Trời nhật nguyệt cầu vồng bắt tứ phía
Ôi Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây
Hương ân tình cho kết lại thành dây,
Mong manh như
lời nhớ thương hàng triệu...
Trong cuộc
đời tình ái của Hàn Mạc Tử thì mối tình đối với Mộng Cầm là da diết nhất và do
đó sau này đã để lại một nỗi đau đớn khôn nguôi trong tâm hồn thi sĩ. Năm mười
bảy tuổi, học lớp Nhất trường Nam Phan Thiết, Mộng Cầm đã có thơ Đường luật
đăng trên báo Công luận. Hai người đã có thư từ trao đổi cho nhau chuyện
văn thơ suốt năm sáu tháng, khi Hàn Mạc Tử đang làm ở Sở Đạc điền Quy Nhơn. Sau
đó Hàn Mạc Tử vào Sài Gòn làm báo. Ngày 12-10-1935 trên Sài Gòn văn chương
có mục nhắn tin: “Anh Bích Khê – Tôi muốn biết địa chỉ của chị Nghệ, vậy phiền
anh chút” (Hàn Mạc Tử - Journal Sài Gòn).
Hàn Mạc Tử
đã đi xe lửa vào Phan Thiết tìm gặp Mộng Cầm và thế là bắt đầu mối tình đẹp đẽ
gần hai năm trời, lúc thì ở cù lao Mũi Né, nơi Mộng Cầm đang học nghề thuốc (Say
nắng), lúc thì ở Lầu Ông Hoàng những đêm trăng huyền ảo (Phan Thiết!
Phan Thiết!). Những kỷ niệm ngọt ngào giữa chàng thi sĩ và “Nàng tiên” đã
được Hàn Mạc Tử ghi lại trong các bài Say Nắng, Sáng Trăng, Bắt chước, Dấu
tích. Và chính Mộng Cầm cũng nhắc với người tình:
“Rồi có khi nào trong phút giây
Trăng lên khỏi núi gió đùa mây
Thì anh nên nhớ người năm nọ
Đã được cùng
anh sống những ngày”[23]
Nhưng rồi
chính Mộng Cầm đã quên lời thề dưới trăng. Mộng Cầm sang ngang khi Hàn Mạc Tử
lâm bệnh chưa đầy một năm! Việc nàng đi lấy chồng không có gì đáng trách, điều
đáng trách là nàng đã “từ chối một sự thật của lòng mình”[24]
và tuyệt hẳn với Hàn Mạc Tử, khi chàng lâm vào cảnh bất hạnh. Cái tin Mộng Cầm
đột ngột vu quy đã làm cho Hàn Mạc Tử đau đớn, tê dại. Kẻ dứt áo ra đi không
biết có đau khổ nhưng chàng thi sĩ “khờ dại” thì như đã chết nửa con người. Ai
đã từng yêu và đã tuyệt vọng mới thấy hết nỗi đau mất mát không gì bù đắp nổi
của chàng:
“Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”
(Những giọt lệ)
Những ngày
đầu rơi vào cảnh cô đơn của kẻ bị tình phụ, thi sĩ nhớ như điên như dại, lúc
nào cũng cảm thấy hình bóng của nàng như ở đâu đây:
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì...
(Muôn năm sầu thảm)
Nhớ từ
những hình bóng mơ hồ, hư ảo cho đến “đôi mắt mùa thu trong leo lẻo, ở xa xôi
lặng nhìn anh khô héo”, “nhớ hàm răng, nhớ hàm răng, mà ngày nào đó vẫn khăng
khít nhiều”. Thi sĩ viết hẳn một Khúc ly tao để thổ lộ tình yêu chung thủy:
“Nếu em không yêu anh thì anh van, em ơi! Cầu với Hoàng Thiên cho anh mùa đông
hóa thành đốm lửa để hơ lấy tay em cho ấm áp hay là anh trở nên suối ngọc tuyền
để được vờn cái nước da trắng nuốt của mình em, không thì biến ra dải đất để cọ
mãi cái vết chân em; hay là hóa ra gió dịu dàng để mơn trớn má đào em và để em
hít vô tận đáy lòng...”
Không còn
nữa cái không khí lãng mạn mơ màng trong Gái quê. Thi sĩ đưa ta trở về
với những yêu thương buồn giận của trần thế, bộc lộ hết nỗi niềm sâu kín của
một kẻ bị tình phụ. Bây giờ thì nàng đã vu quy, những kỷ niệm đẹp đã lùi xa vào
quá khứ, thi sĩ ngày càng cảm nhận xót xa nỗi cô đơn hiu quạnh của mình giữa
thế gian này. Hàn Mạc Tử như rơi vào tâm trạng cô đơn của Lamartine trong bài
thơ nổi tiếng Le Lac (Hồ): “Chỉ thiếu một mình em là cả thế gian hiu
quạnh” (Un seul etre vous manque tout est dépeuplé). Nỗi đau đớn tuyệt vọng có
lúc như phẫn uất, điên cuồng “làm sao giết được người trong mộng”, “để trả
thù duyên kiếp phũ phàng” có lúc chợt vỡ òa ra thành tiếng khóc não nùng,
thê thiết:
Ôi trời ôi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng...
(Phan Thiết! Phan Thiết!)
Đau khổ vì
một tình yêu tuyệt vọng, vì bệnh tật hành hạ, thi sĩ như nhận diện được cái
chết đang đến dần từng ngày. Trong cảnh sống lẻ loi, cô đơn, xa cách với mọi
người, có lúc thi sĩ gọi tên người yêu và vẽ ra trước mắt những hình ảnh của
ngày vĩnh biệt:
“Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn.
Đấy là tất cả người anh tiêu tán
Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế”
(Trường tương tư)
Chế Lan
Viên cho rằng Hàn Mạc Tử có những câu thơ tình hay vào bậc nhất trong thi ca
Việt Nam hiện đại. Những câu thơ như tiếng kêu thương tự đáy lòng, lời thơ như
có dính máu, dính hồn và nước mắt của thi sĩ.
Những câu
thơ tình như thế sao có thể gọi là tiếng vọng của Thánh Tự? Và tiếng kêu thương
càng thống thiết càng chứng tỏ tâm hồn cô đơn đó “trìu mến biết bao người”, gắn
bó thiết tha với cuộc sống là dường nào. “Thơ Tử là thơ của một người yêu nước,
yêu con người, yêu sự sống”[25].
Trong
những ngày đau khổ, thi sĩ không chỉ sống bằng tình yêu mà còn sống vì tình
bạn. Tất nhiên, không phải chỉ có mối tình với Hoàng Cúc, Mộng Cầm. Có những
mối tình như ngọn gió mát thổi qua cuộc đời Hàn Mạc Tử (Mai Đình, Ngọc Sương).
Còn câu chuyện say đắm Thương Thương chỉ là giấc mộng tình, tuy nhiên nó đã để
lại cho chúng ta những vở kịch thơ ngọt ngào, trong sáng (Duyên kỳ ngộ, Quần
tiên hội). Về những mối tình của Hàn Mạc Tử, các tác giả Trần Thanh Mại,
Trần Quách Tấn, Hoàng Diệp, Châu Hải Kỳ, Nguyễn Bá Tín, Trần Thị Huyền Trang đã
nói nhiều, chúng tôi xin phép không nhắc lại nữa. Về tình bạn thì chúng ta phải
tìm hiểu thêm vì ít có một người nào giữ được tình bạn lâu dài, trong sáng và
chung thuỷ như Hàn Mạc Tử. Sự có mặt đông đủ bạn thân của Hàn Mạc Tử thời ấy
trong tập sách này (Chế Lan Viên, Quách Tấn, Bích Khê, Trần Thanh Địch, Yến
Lan, Nguyễn Viết Lãm, Nguyễn Minh Vỹ, Hoàng Diệp, Hoàng Trọng Miên, Trần Tái
Phùng, Trần Thanh Mại, Nguyễn Văn Xê...) đã chứng minh tình bạn cao quý đó.
Trong số bạn bè lui tới số nhà 20 đường Khải Định, Quy Nhơn hoặc thường xuyên
trao đổi thư từ với Hàn Mạc Tử còn có Bùi Tuân, Hoàng Tùng Ngâm, Hoàng Trọng
Quy, Bửu Đáo, Trần Kiên Mỹ, Quỳnh Dao, Thúc Tề, Nguyễn Đình Thuý, Lê Đình
Ngân... Hơn nửa thế kỷ đã đi qua, bạn bè của Hàn Mạc Tử kẻ còn người mất, nhưng
dường như không ai quên được cái không khí thương yêu đùm bọc của tình bạn văn
chương thời đó và những kỷ niệm không thể phai mờ về vùng biển, vùng trời tuyệt
đẹp của cái thành phố nhỏ bé mang tên Quy Nhơn. “Những đêm trăng sáng, màu
trăng hoang dại, huyễn hoặc, thường xuyên quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế
Lan Viên, Yến Lan và tôi...hội họp tại nhà Hàn Mạc Tử, rồi đem ra (drap), mền
đi ngủ biển chỉ cách nhà chừng độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm
tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng
tôi bị trăng vây phủ tứ bề, ngăn hết nẻo đường và bị muôn sao đứng sững dòm ngó
chúng tôi (...)
Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm
đầy sông, chảy láng lai...
.... Sau
một thời gian (trên một năm) nằm chung, ngủ chung, ôm choàng lấy nhau trên bãi
cát vàng, dưới bóng trăng sao, cảnh thông và trăng đã gợi cảm hứng rất nhiều
cho Hàn Mạc Tử thì tôi được tin chàng mắc bệnh phong...” (Hoàng Diệp). Nhưng
khi Hàn Mạc Tử phải cách ly gia đình đi chữa bệnh ở xóm Động, Gò Bồi, xóm Tấn,
Gành Ráng... thì Quách Tấn, Chế Lan Viên, Yến Lan vẫn thỉnh thoảng đến thăm.
Tình bạn của Hàn Mạc Tử với Quách Tấn, Chế Lan Viên, Trần Thanh Địch, Bích Khê,
... xứng đáng được ghi chép vào tập Giai thoại văn học của thời kỳ hiện đại.
Hàn Mạc Tử có những câu thơ về tình bạn vào loại hay nhất gửi Quách Tấn:
Trường Xuyên ơi! Trường Xuyên ơi!
Viết chẳng nên câu nói nghẹn lời
Mây nước bao la tình lẳng lặng
Gió sương mờ mịt nhớ chơi vơi
Tương tư mộng thấy năm canh mộng
Luyến ái trời vương bốn phía trời...
(Nhớ Trường Xuyên)
Và gửi
Trần Thanh Địch:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi...
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi!
(Một nửa trăng)
Hàn Mạc Tử
gắn bó một cách trìu mến, thiết tha như thế với thiên nhiên đất nước, với cuộc
đời, với người yêu, bạn bè và gia đình, sao có thể gọi là một nhà thơ của Hư vô
và cái chết? Chế Lan Viên đã bác bỏ hoàn toàn cái quan niệm gắn Hàn Mạc Tử với
nhà triết học Đan Mạch Soren Kierkegaard, ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh sau
này ở phương Tây. Là một người bạn thơ đã cũng với Hàn Mạc Tử đề xướng lên
“Trường thơ Loạn”, Chế Lan Viên đã bênh vực và khẳng định mạnh mẽ “thiên tài”
của Hàn Mạc Tử trong suốt nửa thế kỷ vừa qua. Lúc Hàn Mạc Tử vừa mới mất ở bệnh
viện Quy Hòa, Chế Lan Viên viết: “Mai sau, những cái tầm thường mực thước kia
sẽ biến tan đi, và còn lại ở cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mạc Tử”[26].
Sau này,
đọc Hoàng Trọng Miên, ta mới biết được Chế Lan Viên viết câu đó trong một tình
trạng bị xúc động mạnh: “Tôi không quên được một buổi trưa, Chế Lan Viên ghé
lại căn gác tôi ở Sài Gòn nghe tôi báo tin vừa được điện tín sáng nay từ Quy
Nhơn cho hay là Hàn Mạc Tử mất rồi, anh ngồi xuống bàn tôi khóc như một đứa
trẻ. Đến khi tôi nói là tờ Người Mới ra một số đặc biệt về Hàn Mạc Tử, Chế Lan
Viên gạt nước mắt ngồi viết bài luôn... Chiều hôm ấy, Chế và tôi ra bờ sông Sài
Gòn uống rượu. Chế tửu lượng yếu nhưng bữa đó lại uống rất hăng trong khi hai
đứa cùng nhắc đến câu chuyện về Hàn Mạc Tử và ngâm thơ Tử. Tới hai giờ sáng thì
Chế đã say oặt người, tôi phải dìu ra xe kéo đưa về”[27].
Bốn mươi
bảy năm sau, trong không khí khoáng đạt của thời kỳ đổi mới tư duy, Chế Lan
Viên lại một lần nữa khẳng định thiên tài Hàn Mạc Tử như một đỉnh cao chói lòa
trong văn học thế kỷ XX: “Cho dù Hàn Mạc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình
duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi ấy chụm
lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ
ra được con chuột nhắt thơ nào thì việc gì ta phải dông dài. May thay Tử là một
đỉnh cao, chói lòa trong văn học thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ”[28].
* *
*
Chế Lan
Viên có một lối nói thông minh, độc đáo vừa hấp dẫn vừa gây ấn tượng mạnh,
nhưng cho đến những bài viết cuối cùng của anh về Hàn Mạc Tử ta vẫn nhận ta dấu
vết của lối nói khoa trương, phóng đại - vốn là đặc trưng của chủ nghĩa lãng
mạn – trong bài Tựa của tập thơ Điêu tàn năm xưa: “Trước không có
ai, sau không có ai, Hàn Mạc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt
Nam với cái đuôi loà chói rực rỡ của mình”[29].
Tuy nhiên, về cơ bản, anh hoàn toàn có lý và có tình khi bênh vực Hàn Mạc Tử.
Anh viết: “Ở miền Nam trước đây người ta đọc Tử hoặc thấp xuống với Freud, với
tình dục bản năng, hoặc cao lên Thượng thanh khí với Chúa Trời hoặc tít tắp ra
xa trong thời gian, trong con đường về cái chết với Heidegger và nhiều nhà
triết học khác”[30].
Ở thời Hàn
Mạc Tử dường như chưa mấy ai biết nhà triết học Đan Mạch Soren Kierkegaard.
Kierkegaard được nhắc đến nhiều ở Sài Gòn những năm sáu mươi, khi văn học hiện
sinh chủ nghĩa phát triển ở miền Nam, trong các đô thị. Mặt khác, cần phải thấy
rằng những tiền đề của chủ nghĩa hiện sinh cũng đã có trong tác phẩm của Thánh
Augustin hay cả trong Thánh kinh Kitô giáo. Kinh Cựu Ước nói rõ về sự đam mê
đuổi theo gió của con người, nói về sự hư phù của tất cả: “Hư phù của hư phù và
tất cả là hư phù”.
Về việc hạ
thấp thơ Hàn Mạc Tử xuống với Freud, với tình dục bản năng cũng có nhiều ý kiến
khác nhau. Hoài Thanh chỉ nhận xét riêng tập Gái quê lại có “một thứ
tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Ký đề tựa
tập thơ ấy là phải lắm: Gái quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn
trong tình dục” (Thi nhân Việt Nam). Đặng Tiến cãi lại: “Một người chỉ
xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tình đi tới đâu? Đây chỉ là một thứ tình
hàm thụ, một lối ái ân không tưởng... nó không thể tự mãn trong một thế giới
không tự mãn” (Đức tin trong hồn thơ Hàn Mạc Tử). Và Đặng Tiến có một
nhận xét thú vị: Cái không khí lơi lả, rạo rực trong bài Bẽn lẽn chủ yếu
là trong cách chọn những chữ gợi tình khi chúng đi đôi với nhau như trăng và
gió, trăng và hoa, liễu và hoa, trong các thành ngữ quen thuộc như “gió trăng”,
“ghẹo nguyệt trêu hoa”, “liễu ngõ hoa tường”. Gợi tình thì táo bạo nhưng vẫn
tinh tế, ý nhị theo kiểu phương Đông.
Chúng tôi
cũng có một nhận xét giống Võ Long Tê khi ông cho bài Bẽn lẽn có một cái
gì đó giống như “một lối giải tỏa ẩn ức bằng ngôn từ”.
Cái không
khí lơi lả, rạo rực trong Gái quê không có gì là khó hiểu. Khi ở đường Espagne
Sài Gòn, có lúc đám bạn bè nhà báo, nhà văn đã định lôi kéo Hàn Mạc Tử vào lối
sống buông thả, trụy lạc, “nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá ngay cả cái Sài
Gòn ăn chơi tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được”[31].
Mặt khác,
những người bạn thơ Hàn Mạc Tử cũng viết nhiều về những đề tài trụy lạc như
Bích Khê trong Tinh huyết (Xác thịt, Người say rượu, Ăn mày), Hoàng Diệp
trong các bài Người say, Phút trụy lạc, Thúc Tề trong Phù Dung nương:
“Đốt nữa đi, em hỡi, đốt nữa đi
Cho tim anh tan ra thành khói cả
Cho đêm nay suốt đời anh sẽ ngã
Hàn Mạc Tử
đã có một cuộc đấu tranh để không bị cám dỗ, để tạo một khoảng cách với luồng
thơ đồi trụy của thời đại. Trong thư gửi Trọng Miên, thi sĩ viết: “Trong khi
làm thơ, Tử đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái
một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói “la passion est naturelle” nghĩa là va đã
hiểu lầm chữ passion rồi vậy. Tình cảm hay cảm hứng (enthousiasme) với dục tình
(passion) khác nhau nhiều lắm. Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không có
một chút gì bợn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường,
ngoài điều răn của Đức Chúa Trời” (Quan niệm thơ). Chúng ta có thể đồng
ý với Nguyễn Bá Tín khi ông cho rằng thơ Hàn Mạc Tử là “sự chế ngự tài tình
những dồn ép để rồi phát tiết ra những bài thơ cao đẹp”.
Thơ Hàn Mạc Tử là sự siêu thăng hoá nhưng ước mơ không được thỏa mãn. “Con
người siêu thăng ấy là hành trình thơ anh từ Gái quê qua Đau thương, đến
Xuân như ý, Thượng thanh khí và Cẩm châu duyên”[33].
Đặng Tiến cũng có một nhận xét tương tự: “Theo Hoài Thanh - người may mắn
hơn chúng ta, được đọc toàn bộ thi phẩm – thì Cẩm châu duyên, thi phẩm
cuối cùng là “trong trẻo hơn cả”. Âu cũng là chuyện lạ. Gái quê, từ ban
sơ, đã là một dòng suối rừng vẩn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên
chở không biết bao nhiêu trần lụy, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ
ra đại dương bằng một dải Cẩm châu trong vắt. Thật là một đặc điểm trong thẩm
mỹ thi ca” (Đức tin trong hồn thơ Hàn Mạc Tử). Có người cho rằng Hàn Mạc
Tử là một “thi sĩ không có đến hai lần trong rừng thơ Việt Nam, trong rừng thơ
quốc tế”[34].
Nhận xét này chỉ có thể đúng nếu xét ở góc độ Hàn Mạc Tử là một phong cách
thơ đa dạng là hết sức độc đáo. Hàn Mạc Tử đã đi một con đường dài từ thơ Đường
cổ điển chuyển nhanh sang lãng mạn, tượng trưng và đã chớm đến bờ siêu thực.
Hàn Mạc Tử đã cố gắng tổng hợp vào bản thân mình những truyền thống văn học xưa
và nay, dân gian và hiện đại, phương Đông và phương Tây, Thiên Chúa giáo, Phật
giáo và cả Khổng giáo, Lão giáo. Người ta cũng nói nhiều đến một thứ ngôn ngữ
có tính cách trưởng giả (noble), giàu âm nhạc, giàu hình ảnh trong thơ Hàn Mạc
Tử, trong đó phải tính đến những ảnh hưởng của các điệu Nam Bằng, Nam Ai, kể cả
nhạc điệu cung văn, đồng bóng. Người ta cũng tranh luận xung quanh nhiều “tổng
hợp đề (synthèses) kỳ lạ và thú vị” về ngôn ngữ như các chữ “Phượng Trì”, “song
lộc triều nguyên” trong bài thơ Ave Maria. Có thể có nhiều cách đánh giá
khác nhau nhưng chắc chúng ta dễ dàng thống nhất khi khẳng định Hàn Mạc Tử là con
chim đầu đàn của nhóm thơ Quy Nhơn, là một trong những ngọn cờ tiêu biểu của
trào lưu văn học lãng mạn và tượng trưng thời kỳ 1930-1945. Không thể tách Hàn
Mạc Tử còn có các nhà thơ lớn của trào lưu đó như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân
Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên v.v...
Thơ Hàn Mạc Tử có những bài vào loại tuyệt tác, nhưng cũng có những bài
bình thường. Có một số bài Hàn Mạc Tử không muốn công bố rộng rãi. Chúng ta nên
quan tâm đến lời Hàn Mạc Tử dặn Quách Tấn trước khi vào nhà thương Quy Hòa:
“Tôi có lời nguyện rằng vào Quy Hòa, nếu Chúa ban phước cho tôi lành mạnh, tôi
sẽ đốt tập Thơ Điên. Nhưng nghĩ lại thơ đã lỡ làm ra rồi, dù có đốt đi
cũng không xóa được tội lỗi, nên tôi không còn giữ ý định đó nữa. Tuy vậy cũng
không nên để cho người đời thấy những bí ẩn của lòng mình. Tôi sợ gia đình tôi
không theo được ý muốn của tôi, nên tôi nhờ anh thâu hết các bản thảo của tôi
đem vào Nha Trang cất giùm...
Tôi vào Quy Hòa, nhờ ơn Chúa, tôi mạnh được thì chẳng nói chi, bằng tôi có
chết đi, thì tôi giao cho anh toàn quyền sử dụng. Bài nào nên cho hành thế, bài
nào không, anh đã biết rõ”. Ta không thể biết được Hàn Mạc Tử định xóa bỏ những
bài nào nhưng sự dè dặt, thận trọng của thi sĩ là cần thiết. Điều đáng nói
không phải chỉ là những bài thơ nào bí hiểm, những bài thơ nào gắn với hiện
tượng mê sảng và bệnh lý, gắn với chiêm bao và cái chết. Điều đáng nói là chúng
ta “cảm ơn thi nhân đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay
trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng” gửi đến cho chúng ta những bài “thơ
sáng láng phương phi như một mùa Xuân như ý”.
Và chúng ta tin rằng hôm nay cũng như mai sau:
Thơ anh sẽ như trầm hương ngào
ngạt
Tỏa lên cao lồng lộng giữa trời
xanh.
(Duyên kỳ ngộ)
Hà Nội, 20-7-1993
Sửa chữa 1997
PHAN CỰ ĐỆ
(Trích theo PCĐ-1, TT. 27-71)
[1] Võ Long Tê gọi là Xuân Thiêng (printemps sacré) theo nguyên
bản chứ không phải là Xuân Thiên (ciel printainier).
[2] Võ Long Tê đã trực tiếp tham khảo bài thơ Hàn Mạc Tử tặng Hoàng Thị
Kim Cúc – nhan đề là Sao, vàng, sao chứ không phải là Đừng cho lòng
bay xa.
[3] Nguyên bản tiếng Pháp: “un univers qui est la version paienne du
Paradis chrétien”
[4] Tuyển tập Hàn Mạc Tử, NXB Văn học 1987, tr. 26.
[5] Quách Tấn, Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử. Tập san Niềm
thương (Nha Trang), bộ mới, số 13-14, trang 23-32, năm 1969.
[6] Phan Xuân Sanh, Ảnh hưởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam. Tạp
chí Đại Học (Huế, số 9, tháng 5 năm 1959).
[7] Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin, NXB Sự thật, Hà Nội, 1961,
phần I, tr. 220.
[8] Đây là nguyên văn thư của Phan Bội Châu, đầy đủ hơn và chính xác
hơn so với tường thuật của Quách Tấn trong “Hàn Mạc Tử với thơ Đường luật” (Người
mới, ngày 30-11-1940) hoặc so với trích bản trên báo Tin tức, số
24-11-1940 mà chúng tôi đã giới thiệu trên Nhân dân chủ nhật, số
24-3-1991.
[9] Nguyễn Bá Tín, Hàn Mạc Tử anh tôi, NXB Tin, Paris, 1990, tr.
25.
[10] Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 35, 36
[11] Xem chú thích tr. 97.
[12] Nguyễn Bá Tín, Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 14.
[13] Đỗ Lai Thúy, Hàn Mạc Tử: một hiện tượng độc đáo trong tư duy thơ
Việt Nam (Hợp lưu, số 5).
[14] Quách Tấn, Đôi điều sai lầm về Hàn Mạc Tử. Trả lời bài “Cuộc
đời và thi nghiệp Hàn Mạc Tử của Đường Bá Bổn”, Văn hóa Á châu, số
20-21, năm 1960.
[15] Theo Võ Long Tê, “Khách sông Lam” là Mộng Cầm vì bố Mộng Cầm làm
việc ở Vinh (Nghệ An).
[16] Nguyễn Bá Tín, Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 75, tr. 25.
[17] Nguyễn Bá Tín, Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 75, tr. 25.
[18] Thư của Hoàng Cúc gửi cho Quách Tấn, ngày 15-4-1941.
[19] Nguyễn Bá Tín, Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 50.
[20] Thư của Hoàng Cúc gửi cho Quách Tấn, ngày 15-4-1941 (Trích Đôi
nét về Hàn Mạc Tử).
[21] Võ Long Tê có lẽ cũng tin là có một tấm ảnh như thế khi dịch câu:
“Áo em trắng quá nhìn không ra” thành “Ta robe trop blanche ne se révèle pas
avec netteté sur cette photo” (L’expérience poétique et l’itinéraire
spirituel de Hàn Mạc Tử, p. 611).
[22] Võ Long Tê dịch: Voici l’Infini, voici l’Éternel, volons-y
ensemble! (Sách đã dẫn, tr. 645).
[23] Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, Thân thế và thi văn, in lần thứ
ba, Tân Việt, 1957, tr. 119.
[24] Châu Hải Kỳ, Xin tỏ chút lòng để tạ lỗi xưa. Văn, số 179
(1-6-1971).
[25] Tuyển tập Hàn Mạc Tử. Lời giới thiệu của Chế Lan Viên, NXB
Văn học 1987, tr. 17.
[26] Những kỷ niệm về Hàn Mạc Tử - Người Mới, số 23-11-1940.
[27] Hoàng Trọng Miên, Con người Chế Lan Viên, Văn học, Sài Gòn, số
1-8-1974.
[28] Thơ Hàn Mạc Tử, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình, 1988, tr.
10.
[29] Thơ Hàn Mạc Tử, sđd, tr. 10.
[30] Thơ Hàn Mạc Tử, Sđd, tr. 35. Ở đây Chế Lan Viên muốn phê
phán bài “Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mạc Tử” của Nguyễn Xuân
Hoàng.
[31] Hoàng Trọng Miên. Những ngày sống chung với Hàn Mạc Tử ở Sài
Gòn, Văn, số 73-74 (7-1-1967).
[32] Đông Dương, số 20-10-1938.
[33] Hàn Mạc Tử anh tôi, tr. 76-77.