Ngược dòng thời gian trở về với gia tài Văn Chương Việt Nam,
người ta thấy vào thập niên 1930, một phong trào Thơ Mới đã xuất hiện trên thi
đàn và đã mở ra một kỷ nguyên thơ tiến bộ phóng khoáng thay thế cho những vần
thơ Đường Luật cổ kính với những niêm luật khắt khe gò bó.
Do ảnh hưởng của trào lưu thơ mới trong văn chương Pháp, những
vần thơ mới đầy sáng tạo, chất chứa hồn thơ, phong phú đa dạng này đã thúc đẩy
cả một phong trào sáng tác thơ mới trong dân gian. Trong đó xuất hiện nhiều nhà
thơ tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn
Mạc Tử... Những tài năng thơ mới danh tiếng này đã thúc đẩy nền thi ca của dân
tộc Việt bước vào những chặng đường mới đầy hoa thơm cỏ lạ... Từ trước đến nay
trên thi đàn nước Việt, có lẽ không có nhà thơ Việt Nam nào, sau khi mất đã để
lại cho hậu thế bao nhớ thương ngậm ngùi bằng nhà thơ Hàn Mạc Tử, vì qua cuộc
sống quá ngắn ngủi của mình, nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh này đã chỉ có một
giấc mộng duy nhất là làm thơ diễn tả và chia sẻ tình thương cho mọi người. Bằng
chứng là gần đây nhà xuất bản Đồng Nai tại Việt Nam đã viết: “Không ai nghi ngờ
Hàn Mạc Tử là một hiện tượng nổi bật trong Văn học Việt Nam giữa thời kỳ thơ mới
xuất hiện. Cho đến nay không ai đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp, mọi
trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mạc Tử. Người ta cũng
không đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc thương người thi sĩ
tài hoa nhưng bạc mệnh này!!”
Hàn Mạc Tử là một nhà thơ Công giáo đầu tiên đã tiên phong đi tìm nguồn cảm hứng sáng tác trong nguồn mạc khải Thánh kinh. Là một thi sĩ Công giáo tài ba ông đã cảm nhận được những nét đẹp của tâm hồn, nhờ đó mới diễn tả hết được hồn thơ trong sáng qua các vần thơ siêu thoát vươn tới Chân Thiện Mỹ. [...]
Để tránh những ngộ nhận, chúng tôi xin thưa đây không phải là
một bài viết phê bình thơ Hàn Mạc Tử, nhưng chỉ là một vài nét đan thanh về cuộc
đời nhà thơ tài hoa cùng với những suy tư cá nhân, xin được coi như một nén
hương kính viếng một thi sĩ không chỉ nổi danh về sự nghiệp thi ca mà còn được
nhắc đến qua những mối tình dang dở. [...]
Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mạc Tử
Trong tác phẩm Danh Nhân Tự Điển (nhà xuất bản Xuân Thu Sài Gòn
1966), Giáo sư Trịnh Vân Thanh sau khi trình bày tiểu sử và thi văn nhà thơ Hàn
Mạc Tử đã nhận định: “Nhiều người thường cho Hàn Mạc Tử là một nhà thơ lãng mạn
trữ tình. Nhưng đích thực ông là một thiên tài hiếm có trong Phong Trào Thơ Mới
Việt Nam... Từ một hiện tại lành mạnh, một người trai giang hồ đi ngao du Nam
Bắc tới một hiện tại đau ốm, một bệnh nhân phong, một phế nhân nằm yên một chỗ
chờ chết, Hàn Mạc Tử đã tìm cho đời mình một hướng đi, một con đường đi vào Vĩnh
Cửu.. Lời thơ của Hàn Mạc Tử không phải chỉ là tiếng nói của một con người văn
nghệ thời đại, nhưng trên bình diện con người, ông chính là một thi sĩ mà các
thế hệ bây giờ cũng như sau này không thể nào quên được”.
Đề cập đến thơ mới Việt Nam, bất cứ một nhà văn học sử nào cũng
không thể không nhắc đến Hàn Mạc Tử, vì ông chính là một tài hoa sáng chói trong
thi ca Việt Nam. Cuộc sống của ông chỉ kéo dài 28 xuân xanh nhưng ông đã bắt đầu
làm thơ từ năm 14 tuổi. Và sau khi mất đã để lại cho hậu thế những thi phẩm nổi
tiếng với những cảm hứng dạt dào tình thương pha lẫn khắc khoải, máu và nước
mắt.
Trong hoàn cảnh đất nước nghèo như Việt Nam, rất hiếm có trường
hợp chỉ 2 năm sau khi nhà thơ mất, khi nhà phê bình Trần Thanh Mại ra mắt tác
phẩm: Hàn Mạc Tử - Thân Thế và Thi Văn (Nxb Rạng Đông Hà Nội 1942 - Nxb Tân Việt
Sài Gòn tái bản 1957) là bắt đầu cả một phong trào tìm đọc thơ của Hàn Mạc Tử,
nhất là đối với giớí trẻ thời đó. Từ đó đến nay, Hàn Mạc Tử vẫn là đề tài được
rất nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhà phê bình đề cập đến như một chủ đề bất tận! Thời
gian qua, biết bao tác phẩm, đặc san, bài báo đã viết về ông, đặc biệt từ năm
1998 đến nay, sau khi cuốn Đi Tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử, một công trình sưu khảo
công phu giá trị do ông Phạm Xuân Tuyển phát hành. [...]
Những ngày cuối đời của Hàn Mạc Tử
Không một người nào biết rất rõ những gì xảy ra trong 52 ngày
cuối đời của nhà thơ Hàn Mạc Tử bằng ông Rôcô Nguyễn Văn Xê. Với nhà thơ, ông là
một người đồng bệnh, đồng đạo, một người bạn tri kỷ đã tận tình giúp đỡ hết
mình. Sau khi nhà thơ mất, ông được di chuyển vào Nam và mất ngày 8-3-1995 tại
trại phong Bến Sắn, xã Khánh Bình, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trong một
cuộc phỏng vấn trước khi mất, ông Nguyễn Văn Xê đã kể cho nhà sưu khảo Phạm Xuân
Tuyển những chi tiết trong những ngày cuối đời nhà thơ như sau:
“Ngày 20 tháng 9, 1940, Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ
Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh
(Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm.. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí
đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng
lễ, rước lễ - 7 giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán
đen - 8 giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh - 11
giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi - 14 giờ 30 lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17
giờ dùng cơm chiều”. (Trích Đi Tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử, trg 35).
Có lần Trí còn tâm sự: “Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển,
rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người nên
tôi được hưởng sự bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã
chết trong tôi khi sống ở Xóm Tấn đầy đau khổ, nghèo nàn, cô đơn, không một ai
đến an ủi săn sóc dù là người thân quyến”... “Trí là một người rất sùng kính Đức
Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội”... “Trưa
ngày 30-10-1940, khi đọc kinh tại nhà nguyện về, Trí hỏi tôi: Anh Xê có đến La
Vang đi kiệu Đức Mẹ lần nào chưa? Trí lộ vẻ mặt buồn buồn nói: Từ ngày có bệnh
tôi ao ước có một lần trong đời kính viếng Đức Mẹ La Vang... Lúc này tôi lại
càng vô cùng ao ước được quỳ gối dưới chân Mẹ La Vang xin Người tha thứ tội
lỗi”... “Suốt hơn một tuần, từ 30-10-1940 đến 7-11-1940, Trí bị bệnh kiết lỵ
nặng nên mất sức! Đêm ngày 8-11-1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì
cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l'Âme (Tâm Hồn Thanh
Khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu
Phan Sinh đã săn sóc Trí. Đây là bút tích cuối đời của Trí”.
“Chiều 9 tháng 11, 1940, Trí xưng tội lúc 16 giờ 30. Sáng ngày
10 tháng 11, 1940, lúc 6giờ 45 Cha Tuyên Úy cho Trí chịu phép Xức Dầu bệnh nhân
và rước lễ lần cuối.. Đêm đó tôi (ông Xê) trực canh chừng Trí. Mẹ Nhất Juetta và
sơ Julienne đến thăm Trí ba lần trong đêm. Lúc ba giờ sáng, sơ Julienne cho biết
Trí khó lòng qua khỏi! Thời gian của đêm nay đối với tôi như chùng hẳn xuống.
Tôi nhìn Trí, ngoài những lúc đau bệnh, Trí khi quỳ, lúc ngồi, khi nằm, trên tay
lúc nào cũng cầm chuỗi hạt đọc kinh cho đến lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11,
1940 thì Trí nhẹ nhàng tắt thở một cách êm ái” (Trích Đi Tìm Chân Dung Hàn
Mạc Tử, trg 36 - 38).
[....]
Những tác phẩm của Hàn Mạc Tử
Hàn Mạc Tử bắt đầu làm thơ Đường Luật năm 14 tuổi (1926) xướng
họa thi ca với anh cả Nguyễn Bá Nhân. Năm 18 tuổi (1930) tham dự bình thơ, thi
thơ với nhà chí sĩ Phan Bội Châu, nhưng thực sự mãi tới năm 22 tuổi (1934) khi
bước vào làng báo Sài Gòn, phụ trách các nhật báo Sài Gòn, Tân Thời, chủ trương
tờ Công Luận Văn Chương, tài năng và hồn thơ của chàng mới phát triển dồi dào và
tạo uy tín trong làng thơ làng báo. Hiện nay, người ta ghi nhận Hàn Mạc Tử đã
đóng góp cho Văn Học Việt Nam những tác phẩm dưới đây:
Ÿ Lệ Thanh Thi Tập: Thơ Đường Luật đăng rải rác trên các báo.
Ÿ Gái quê: Tập thơ mới đầu tay phát hành năm 1936, nhà
thơ Phạm Văn Ký viết tựa.
Ÿ Đau thương (Thơ điên): phát hành 1937, gồm 50
bài hoàn thành trên giường bệnh.
Ÿ Tập Thơ Mới Xuân như ý.
Ÿ Tập Thơ Mới Thượng thanh khí.
Ÿ Kịch Thơ: Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và
Quần tiên hội (đang viết dở dang).
Ÿ Chơi Giữa Mùa Trăng (Thơ và Văn Xuôi).
Bút tích cuối đời là bài văn viết bằng tiếng Pháp với cây bút
chì cùn nhan đề: La Pureté de l'Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Đức Mẹ
Maria và các bà mẹ dưới trần. - Trong cuốn Đi Tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử,
nhà sưu khảo Phạm Xuân Tuyển cho biết: “Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria
Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc
Tử là một thiên tài hiếm có! Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ “nénuphars” (hoa
súng) thay cho chữ “lotus” (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với
các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập
bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông
hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Xin ghi lại đây một bài thơ tiêu biểu “Đây Thôn Vỹ Dạ”
của Hàn
Mạc Tử và mời quý độc giả thưởng thức:
Nét Công giáo trong thơ Hàn Mạc Tử
Năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong bộ Nhà Văn Hiện Đại,
tập III, khi nhận định về nhà thơ Hàn Mạc Tử đã viết: “Hàn Mạc Tử có lẽ là người
Việt Nam đầu tiên làm thơ ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh Maria và Chúa Giêsu. Ông
ca tụng đạo Công giáo với một giọng rất chân thành. Đây là lần đầu tiên thi ca
Việt Nam thấy được một nguồn cảm hứng mới. Tôi dám chắc rồi đây sẽ còn nhiều thi
sĩ Việt Nam đi tìm nguồn cảm hứng trong đạo giáo và đưa thi ca Việt Nam vào con
đường triết học”.
Nhà nghiên cứu Võ Long Tê, hiện sống tại Canada, trong đoạn kết
bài Thi Hào Công giáo Hàn Mạc Tử cũng viết: “Nghiên cứu Hàn Mạc Tử đã dẫn ông
đến một kết luận thú vị bất ngờ. Trong Hàn Mạc Tử, không phải chỉ có một tác giả
được thừa nhận như một thi hào mà còn có một con người sống với Niềm Tin Công
giáo nhiệt thành. Đối với Hàn Mạc Tử, làm thơ là làm người nghĩa là sống đạo”.
Quả thật, với bất cứ ai đọc thơ Hàn Mạc Tử, người ta thấy Đạo
đối với ông chính là cứu cánh, là con đường, là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối có giá
trị vĩnh hằng mà nhân loại mãi mãi tìm kiếm, mãi mãi khắc khoải trong cuộc hành
trình vào đời. Với Hàn Mạc Tử, thơ là một nét nghệ thuật cao đi vào chủ nghĩa
siêu linh, là cõi xuất thế, là bến trăng sao an toàn cho con người ẩn náu khi
sống trong tuyệt vọng khổ đau, trong cô đơn của nhân tình thế thái. Không ai có
thể phủ nhận nét Công giáo trong thơ Hàn Mạc Tử, vì chính ông đã mở rộng biên
giới thi ca Việt Nam nhờ những sáng tạo độc đáo, mà nền giáo dục Công giáo từ
cha mẹ, gia đình, trường Pellerin và gương sống các nữ tu Phan Sinh đã hun đúc
hồn thơ của ông. Trong những ngày cuối đời, Hàn Mạc Tử đã sống như một nhà tu
thực sự, cuộc sống chìm lặng trong câu kinh, lời nguyện pha lẫn với những đớn
đau do bệnh phong hành hạ. Chính nhà thơ đã thổ lộ: “Trong những ngày cuối đời,
tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện là nhiều hơn cả”.
Hàn Mạc Tử đã sống với thế giới siêu linh một cách tự nhiên đến
mức “hư thực làm sao phân biệt nổi”. Nhờ đó thi nhân đã nghe được điều chúng ta
không nghe, đã thấy được cái mà mắt trần chúng ta không thấy. Thi nhân đã lặng
chìm vào trăng sao, đắm đuối trong êm ả của sông Ngân, tan biến trong Tình Yêu
bao la huyền nhiệm của Thượng Đế. Trong trường ca Đà Lạt trăng mờ, phải
chăng nhạc sĩ Phạm Duy đã nắm bắt được hồn thơ Hàn Mạc Tử. Trong thi phẩm Đà
Lạt trăng mờ được ông phổ nhạc thành trường ca bất hủ, Phạm Duy đã để cho
hát ba lần dòng nhạc: “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu “với những âm thanh vời
vợi mông lung huyền nhiệm. Linh thiêng làm sao một đêm Đà Lạt trăng mờ
huyền ảo:
Cả trời say nhuộm một màu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói chẳng rằng
Không một tiếng gì nghe đụng chạm
Dầu là tiếng vỡ của sao băng.
Và cả lòng tôi chẳng nói chẳng rằng
Không một tiếng gì nghe đụng chạm
Dầu là tiếng vỡ của sao băng.
Cứ thế, tiếp tục đọc những vần thơ cao sang thanh khiết của Hàn
Mạc Tử trong các thi phẩm: Ra đời, Điềm lạ, Nguồn thơm,
Xuân đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện, Ngoài vũ trụ, Vầng
trăng... trong tinh thần tôn giáo, tâm hồn con người sẽ được cất cánh bay
cao lên với trăng sao, ngào ngạt hương hoa, mặc dầu thân xác bệnh hoạn, đau
thương dồn dập giữa những thăng trầm của cuộc sống.
Thật là một thiếu sót lớn lao, nếu muốn tìm hiểu nét Công giáo
trong thơ Hàn Mạc Tử, mà chúng ta quên không đề cập đến thi phẩm bất hủ Ave
Maria (Kính Chào Maria). Nhà thơ khai bút bằng lời chào mừng trang trọng
cung kính Mẹ Maria, Người Nữ Tuyệt Vời lung linh thánh thiện. Trong kho tàng
Nghệ Thuật Công giáo thế giới, biết bao nghệ sĩ, họa sĩ, thi sĩ đã sáng tác muôn
vàn tác phẩm với những nét nghệ thuật độc đáo như Michel Ange, Raphael, Fra
Angelico, từ thời Phục Hưng đến thời Cận Đại. Người Việt Nam chúng ta tự hào vì
với một Hàn Mạc Tử, chúng ta không thua kém với các nghệ sĩ nổi tiếng trên thế
giới trong lãnh vực tôn giáo này.
Kỷ niệm một lần gặp nạn trên bờ biển Quy Nhơn, những lời kinh
với chuỗi tràng hạt luôn có bên mình, ngay cả niềm đau se buốt khi những ngón
tay nhà thơ co rút lại vì bệnh phong, tất cả đã đưa anh đến trạng thái xuất thần
khi sáng tác thi phẩm Ave Maria đưa hồn anh đi rất xa trong cõi mênh mông
với các sứ thần thiên quốc. Những chữ viết về nhà thơ Công giáo Hàn Mạc Tử của
tác giả bài viết này để tưởng niệm anh sẽ trở thành vô nghĩa, nếu không kính mời
quý độc giả đi vào chính thi phẩm bất hủ Ave Maria:
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và Tổng Lãnh Thiên Thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa.
Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh.
Hàn Mạc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công giáo, một tâm hồn
thấm nhuần Niềm Tin Công giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện, bằng
đời sống nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được những chiều kích mới lạ
vượt qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải qua. Càng đọc thi phẩm bất
hủ Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền nhiệm trong thế giới vô
hình. Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong sứ mệnh trình bày một
nền Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu đời của Á Châu. Đem tôn
giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo phải chăng Hàn Mạc Tử đã đi
đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo hội Á Châu đã trình bày. Đây chính là
một vinh dự cho Giáo hội Công giáo Việt Nam, vì có một người con đã đóng góp và
khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt Nam.
Với tác giả bài viết này, từ khi còn theo học ban văn chương
tại nhà trường vẫn đặc biệt ngưỡng mộ quý mến nhà thơ Hàn Mạc Tử. Nhưng có một
kỷ niệm không bao giờ quên, mặc dầu đã 26 năm nay! Đó là nhân Mùa Đại Lễ Giáng
Sinh năm 1974, Phòng Thông Tin Hoa Kỳ Sài Gòn tổ chức một buổi trình diễn đặc
biệt Thánh Ca Giáng Sinh tại thính đường Hội Việt Mỹ. Chúng tôi vẫn nhớ mãi khi
cố Nhạc sĩ Hải Linh điều khiển Ca đoàn Hồn Nước, với trên 60 ca viên, trình diễn
hai trường ca – hai thi phẩm bất hủ của nhà thơ Hàn Mạc Tử: Ave Maria do
Hải Linh phổ nhạc và Đà Lạt trăng mờ của Phạm Duy. Hôm đó cả hội trường
đông đảo thính giả ngoại quốc và Việt Nam đã hoàn toàn nín lặng, khi những dòng
nhạc hòa lẫn hồn thơ với những âm thanh vời vợi mông lung... đưa lòng người vào
một không gian huyền ảo thánh thiện tuyệt diệu... Nhân mùa tưởng niệm 60 năm
ngày nhà thơ mất, xin thành kính gửi một nén hương về bên kia thế giới cho nhà
thơ tài hoa bac mệnh của chúng ta.
Lm TRẦN QUÝ THIỆN
Lm TRẦN QUÝ THIỆN
[1] Linh mục Trần Quý Thiện (1928-2012) đã viết bài này nhân
kỷ niệm 60 năm Hàn Mạc Tử qua đời, năm 2000.